DẤU ẤN PHẬT GIÁO NAM TÔNG KINH TRONG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
3
triển Phật giáo, đồng thời dùng ngọn cờ Phật giáo đoàn kết các lực
lượng chống Pháp giành độc lập dân tộc. Cuộc vận động chấn hưng
Phật giáo Việt Nam được khởi xướng đầu tiên tại Sài Gòn vào năm
1920 gắn với sự hoạt động của nhà sư Khánh Hòa (1878 - 1947),
Thiện Chiếu (1898 - 1974)... Từ phong trào chấn hưng Phật giáo
miền Nam lan ra miền Trung và miền Bắc với Hòa thượng Giác
Tiên, Thượng tọa Tố Liên, Thượng tọa Trí Hải, các cư sĩ như Lê
Đình Thám, Phan Kế Bính, Nguyễn Năng Quốc, Trần Văn Giáp,
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Trọng Thuật, Huỳnh Thúc Kháng,...
Nam bộ từ thế kỷ XIX, do nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội nên xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Năm 1849, ông
Đoàn Minh Huyên sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; năm 1867, ông
Ngô Lợi lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; năm 1926, các ông Ngô Minh
Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm Công Tắc
(1893-1959) sáng lập đạo Cao Đài; năm 1939, ông Huỳnh Phú Sổ
sáng lập Phật giáo Hòa Hảo...
Trong bối cảnh đó, Phật giáo Nam tông Kinh cũng dần dần được
hình thành và từng bước phát triển.
1.2. Quá trình thành lập
Quá trình thành lập của Phật giáo Nam tông Kinh có thể chia
thành 02 giai đoạn:
1.2.1. Giai đoạn 1930 - 1956
Cuối năm 1930, nhân đọc quyển Tuệ Giác của Phật, nhận thức
rõ giá trị đích thực của đạo Phật, ông Lê Văn Giảng ôm ấp ý nguyện
truyền bá giáo pháp Phật giáo Nguyên thủy. Lúc đầu, ông tập họp
được các bạn đồng học cùng nhau thực hành thiền định. Năm 1935,
ông gặp người bạn là ông Nguyễn Văn Hiểu, ông đem quyển Tuệ
giác của Phật giới thiệu và khuyên về Campuchia tầm sư học đạo.
Sau đó, ông Lê Văn Giảng, ông Nguyễn Văn Hiểu, ông Đoàn
Văn Hộ, ông Phạm Văn Tông, ông Hồ Văn Viên, ông Văn Công
Hương, ông Nguyễn Văn Quyến… là những người đầu tiên tiếp
thu Phật giáo theo truyền thống Nam tông. Những tín đồ trong