58
無量壽經 - 漢字
&
越語
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
Ði
ểm mầu nhiệm của Tịnh Độ tông là “chẳng lìa Phật pháp mà hành thế pháp,
ch
ẳng bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp”. Bởi vì, chúng ta trì niệm danh hiệu A Mi
Đà Phật thật rất tiện lợi, tu chỗ nào cũng được, không cần phải ẩn cư nơi rừng núi,
lúc nào cũng niệm được, chẳng phiền bế quan (đóng cửa không giao tiếp với bên
ngoài), ch
ẳng cần ngồi yên, chỉ cần phát khởi cái tâm Bồ-đề rộng lớn, một lòng
chuyên ni
ệm danh hiệu A Mi Đà Phật thì mười niệm hay thậm chí một niệm cũng
được vãng sanh Cực Lạc thành Phật; chẳng trở ngại công việc thế gian mà lại nhanh
chóng thoát sanh t
ử, rộng độ chúng sanh đời vị lai.
Tín - Nguy
ện - Hạnh gọi là ba tư lương của hành giả cầu sanh thế giới
C
ực Lạc. Ba tư lương này nếu thiếu một thứ cũng không được vãng sanh Cực Lạc,
tuy ba nhưng chính là một: trong Tín có Nguyện có Hạnh, trong Nguyện có Tín có
H
ạnh, trong Hạnh có Tín có Nguyện. Đại sư Ngẫu Ích nói trong A Mi Đà Kinh Yếu
Gi
ải rằng:
“Tin sâu Nguyện thiết cũng chính là tâm Vô Thượng Bồ-đề”; “Được
vãng sanh hay không là do có Tín - Nguy
ện hay không, phẩm vị cao hay thấp là
xem công phu Trì Danh sâu hay c
ạn”. Cho nên, niệm mỗi câu Phật hiệu đều phải
đầy đủ Tín - Nguyện. Đại sư Ấn Quang (vị Tổ sư thứ 13 của Tịnh Độ tông) giảng về
Tín - Nguy
ện như sau:
“Tin Ta Bà khổ, khổ không nói nên lời; tin Cực Lạc vui,
vui không gì sánh được!
Nguy
ện rời khỏi Ta Bà, như tù nhân mong ra khỏi nhà
ng
ục; nguyện sanh Cực Lạc, như kẻ đi lạc mong quay được về nhà!”. Kinh Vô
Lượng Thọ giúp chúng ta tu Tín - Nguyện. Nếu Tín - Nguyện chưa có thì kinh
giúp chúng ta phát kh
ởi Tín - Nguyện. Nếu Tín - Nguyện đã phát khởi rồi nhưng
không
được đầy đủ thì kinh giúp vun bồi Tín - Nguyện đến đầy đủ kiên cố vững
ch
ắc. Trong bộ Kinh Phật Thuyết A Mi Đà, Phật dạy: “Không phải ít thiện căn
phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi nước kia!”. Thiện căn chính là Tin
sâu không nghi và Nguy
ện thiết tha cầu sanh Cực Lạc, phước đức chính là hạnh
Trì Danh ni
ệm Phật. Nghĩa là: nếu chúng ta thiếu khuyết một chút thiện căn, phước
đức thì bộ kinh này sẽ vun bồi thiện căn, phước đức của chúng ta đến mức đầy đủ;
còn nhân duyên thì g
ặp được pháp môn Tịnh Độ và nhất là gặp được bộ Kinh Vô
Lượng Thọ là nhân duyên đã đầy đủ rồi.
Kinh
Vô Lượng Thọ có tất cả 5 loại nguyên bản dịch thuộc thời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống. Nếu chúng ta phải tu học
t
ất cả 5 loại nguyên bản dịch này thì
th
ật sự rất khó khăn, thật sự rất rắc rối, tâm phàm phu như chúng ta dễ sanh hoài nghi
và t
ạp loạn. Vì vậy, việc hội tập 5 nguyên bản dịch Kinh Vô Lượng Thọ lại thành một
h
ội bản hoàn thiện là điều tất yếu phải làm, chư Tổ sư Đại đức xưa nay đều rất quan
tâm đến vấn đề này. Kinh Vô Lượng Thọ đặc biệt có nhân duyên với hàng cư sĩ tại
gia, c
ả ba lần hội tập kinh đều do Bồ-tát tại gia thực hiện. Chúng tôi cho rằng không
ph
ải các vị xuất gia như Liên Trì, Ngẫu Ích, Ấn Quang, Tịnh Không, v.v... không làm
được mà chính là vì thời khắc nhân duyên chư Phật Bồ-tát muốn phổ độ chúng sanh
thì ph
ải làm biểu pháp thị hiện ra như vậy.