KINH VÔ LƯỢNG THỌ - ÂM HÁN VIỆT & CHỮ HÁN
57
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
lo
ạn tương đương cảnh giới cõi Tứ Thánh pháp giới và Lý nhất tâm bất loạn (Đại
Tri
ệt Đại Ngộ Minh Tâm Kiến Tánh) tương đương cảnh giới cõi Thật báo trang
nghiêm. Hai t
ầng công phu này đều đã chứng được Thánh quả. Công phu thành phiến
ch
ỉ là đắc được Thiền-định, vẫn còn là phàm phu.
N
ếu thường ngày rất chăm chỉ niệm Phật nhưng nghiệp chướng vẫn thường
kh
ởi tác dụng hiện hành thì công phu niệm Phật này không có lực, niệm Phật như thế
r
ất khó vãng sanh Cực Lạc, khả năng được vãng sanh Cực Lạc là rất mong manh.
Hành gi
ả niệm Phật công phu không đắc lực thì phải xem lại đức hạnh của mình, xem
xem nh
ững lời Phật dạy trong bộ Kinh Vô Lượng Thọ mình có làm trái phạm lời dạy
nào không, xem thân - kh
ẩu - ý của mình còn tạo ác nghiệp không. Tóm lại, hành gi
ả
dù r
ất nỗ lực niệm Phật nhưng công phu niệm Phật không có lực chính là do
đức hạnh của mình còn kém khuyết, tâm Bồ-đề chưa phát khởi. Pháp sư Từ Vân
Quán Đảnh vào thời đầu nhà Thanh có viết bộ “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên
thông chương sớ sao”, Ngài nói người niệm Phật có 100 loại quả báo, quả báo đầu
tiên là ni
ệm Phật đi xuống A-tỳ địa ngục! Nguyên nhân niệm Phật đi xuống A-tỳ địa
ng
ục là do Ngã chấp quá nặng, mỗi niệm đều là tự tư tự lợi, mỗi niệm đều là tổn hại
người khác để lợi mình. Đại sư Triệt Ngộ (vị tổ sư thứ 12 của Tịnh Độ tông) dạy rằng:
“Thật vì sanh tử phát tâm Bồ-đề, dùng Tín - Nguyện sâu trì danh hiệu Phật!”.
Ông lão bà lão
ở dưới quê dù không biết chữ, họ cũng không hiểu cái gì gọi là
tâm B
ồ-đề nhưng họ chân thành cung kính niệm Phật 3 năm thì vãng sanh Cực Lạc
bi
ết trước ngày giờ hiện tướng lành hy hữu. Nếu quan sát tỉ mỉ những ông lão bà lão
này thì th
ấy được h
ọ đều là những người có tâm địa rất thanh tịnh; họ rất lương
thi
ện, rất chân thành, rất cung kính; họ không có nghĩ tưởng lung tung xằng bậy
c
ả ngày như chúng ta; bảo họ niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để thành Phật thì họ
th
ật sự tin tưởng không có một chút hoài nghi; đây cũng chính là tâm Bồ-đề.
Ph
ật gọi những người này là thiện căn - phước đức sâu dày, thiện căn - phước đức
này là h
ọ đã huân tu từ rất nhiều đời quá khứ, không phải ngẫu nhiên mà có được.
Chú thích: Tâm B
ồ-đề là tâm giác ngộ. Thể của tâm Bồ-đề là tâm chân thành
đến cực điểm (Cư sĩ Tăng Quốc Phiên giảng về ý nghĩa chữ “thành”: một niệm không
sanh chính là thành). D
ụng của tâm Bồ-đề có hai tác dụng, đối với bản thân Tự thọ
d
ụng là tâm thanh t
ịnh bình đẳng giác và đối với chúng sanh Tha thọ dụng là tâm
đại từ đại bi. Tâm Bồ-đề chính là Chân Tâm. Trong bộ Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Ph
ật thì Phật giảng tâm Bồ-đề là Chí thành tâm, Thâm tâm và Hồi hướng phát nguyện
tâm; tuy danh t
ừ thuật ngữ khác nhau nhưng ý nghĩa là một.⁂
Trong b
ộ Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Vong thất Bồ-đề tâm, tu
chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp!” (Dịch nghĩa: “Tu các pháp
thi
ện mà đánh mất đi Bồ-đề tâm thì chính là nghiệp ma!”).