KINH VÔ LƯỢNG THỌ - ÂM HÁN VIỆT & CHỮ HÁN
61
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
C
ụ Hạ từng giữ các chức vụ như Tri châu tỉnh Trực Lệ, Tri huyện Tịnh Hải,
Tri ph
ủ Giang Tô, Đoàn luyện phó đại thần tỉnh Sơn Ðông. Sau cách mạng Tân Hợi
(1911), c
ụ Hạ được cử giữ chức Hội trưởng Hội Liên Hiệp Các Giới tỉnh Sơn Ðông
để tuyên cáo tỉnh Sơn Ðông độc lập. Khi chế độ Dân Quốc được thành lập, cụ được
m
ời giữ chức cố vấn tối cao cho phủ Ðề đốc tỉnh Sơn Ðông, kiêm nhiệm các chức Bí
thư trưởng, Tham mưu trưởng, v.v… Năm 1916, cụ được mời giữ chức Bí thư trưởng
ph
ủ Tổng Thống. Năm 1918, cụ được bầu làm Nghị viên Quốc Hội, đảm nhiệm chức
G
iám đốc viện bảo tàng Tề Lỗ Kim Thạch Họa Thư Quán, đồng thời làm Lâm trưởng
c
ủa Sơn Ðông Phật Giáo Cư Sĩ Lâm. Năm 1920, cụ giữ chức Giám Vận Sứ tỉnh Sơn
Ðông, t
ận lực bài trừ những tệ đoan lâu đời trong việc đánh thuế muối, được dân
chúng khen ng
ợi vô cùng. Năm 1921, cụ từ chức để trù bị kế hoạch lập đại học Ðiền
Ph
ụ và đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng trường Ðông Lỗ.
Năm Ất Sửu (1925), Đề đốc Trương Tông Xương (lãnh tụ quân phiệt ở Sơn
Ðông) vu kh
ống cụ Hạ tội tuyên truyền tư tưởng Cộng Sản rồi ra lệnh tập kích truy
nã nên c
ụ phải lánh qua Nhật. Trong thời gian ở Nhật, cụ giao du thân thiết với các
nhân sĩ thuộc giới nghệ thuật, văn hóa và tôn giáo như các ông Ðằng Hổ (người tỉnh
H
ồ Nam), Thủ Dã Hỷ Trực, v.v… Lại còn có các ông Cát Xuyên Hạnh Thứ Lang,
Thương Thạch Vũ Tứ Lang và ông Kim Cửu Kinh người Triều Tiên đến cầu học với
c
ụ Hạ. Hai năm sau, cụ Hạ trở về nước, dưỡng bệnh ở vùng Thiên Tân - Ðại Cô. Năm
1932, c
ụ chuyển đến sống ở Bắc Kinh, chuyên tâm nghiên cứu, hoằng dương Phật
pháp. Trong th
ời gian này, ông Hà Tư Nguyên (cũng là người tỉnh Sơn Ðông, được
c
ử làm Thị trưởng Bắc Bình) thường đến thảo luận, nghiên cứu Phật pháp với cụ Hạ.
Các v
ị như Hoàng Niệm Tổ (chuyên viên thâu phát sóng thuộc cục phát thanh trung
ương Bắc Bình - Thiên Tân, kiêm trưởng đài phát thanh Bắc Bình), Tề Xướng Ðỉnh
(phó trưởng đài), v.v… đều đến học Phật với cụ.
Năm 1939, cụ cùng với Hiện Minh trưởng lão (phương trượng chùa Quảng Tế
ở Bắc Kinh) và cư sĩ Cận Dực Thanh (Vân Bằng) sáng lập T
ịnh Tông Học Hội, lấy
ngày khánh đản Ðại Thế Chí Bồ-tát làm ngày kỷ niệm sáng lập hội; với tông chỉ:
“Nghiên cứu kinh điển Ðại Thừa, phát dương tinh thần Phật giáo, lấy Tín - Nguyện -
Trì D
anh để nhập biển nguyện của đức Phật A Mi Ðà”. Tổ chức này không có một
cơ cấu quản trị trung ương mà chỉ hoạt động dựa trên tinh thần tự giác cộng tu của
các h
ội viên, lấy việc hoằng dương Tịnh Ðộ làm sự nghiệp chính. Hiện thời, cố vấn
giáo đạo là Đại lão Hòa thượng Ân sư Thượng nhân Thích Tịnh Không. Ban đầu,
T
ịnh Tông Học Hội chỉ tổ chức các khóa Phật thất mỗi năm vài lượt tại các chùa
Qu
ảng Tế, Hiền Lương, Niêm Hoa, Cực Lạc Am và trường tiểu học Từ Ðức cũng
như cung thỉnh các vị Cao Tăng và Đại đức cư sĩ hữu danh luân phiên diễn giảng.
Năm 1945, cụ Hạ cùng các nhân sĩ thuộc Bắc Hải Ðoàn tổ chức pháp hội tiêu
tai c
ầu nguyện hòa bình vào đúng ngày Thánh đản Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
kéo dài su
ốt 7 ngày, quy tụ cả vạn người tham dự.