xuống một con suối để binh sĩ toàn quân đến uống, nơi đó về sau gọi là
suối rượu. Chủ tịch thành phố biếu anh một gói trà, anh gọi người này
người kia đến uống, thật chẳng bằng thả trà vài tháp nước của công ty nước
máy để cả thành phố được biết ân tình của chủ tịch thành phố.
Trang Chi Điệp bảo:
- Em cười anh được yêu chiều mà giật mình phải không?
Liễu Nguyệt đáp:
- Vậy thì anh đừng coi thường em.
Ngưu Nguyệt Thanh nói:
- Gọi người đến uống trà thì cứ gọi bọn họ đến, đừng có gọi Đường
Uyển Nhi làm gì, đàn bà thì có biết thưởng thức cái quái gì? Bảo em đến
thưởng thức trà ngon, ngửi thì thơm uống vào thì chỉ thấy chát và đắng.
Trang Chi Điệp bảo:
- Em là người Quan Trung, uống trà chỉ để khỏi khát, cũng có thể
nước ở Quan Trung có chất chua mặn, bỏ một ít trà vào là để át mùi nước
thôi, mà ở phương Nam nước tốt, uống trà lại coi trọng thưởng thức mùi vị,
Đường Uyển Nhi là người Đồng Quan, quê quán lại ở Thỉêm Nam, cô ấy
biết thưởng thức đấy. Lần trước anh ở nhà A Xán, trà nhà cô ấy mua ở
vườn chè Dương khâm Giang Tô, vị ngon lắm, uống vào ăn luôn cả bã chè,
trước khi ra về còn bốc một dúm bỏ vào mồm nhai, mấy ngày vẫn còn mùi
thơm trong miệng.
Liễu Nguyệt nói:
- Sao anh kém thế, ăn cả bã chè ư?
Trang Chi Điệp nói:
- Em là người Thỉêm Bắc, càng không hiểu rõ chuyện này. Em đọc
nhiều sách đấy, em thử nói, tại sao trong sách cổ thường viết "ăn chè". Đó
là người cổ xưa giã vụn chè ra hoà vào cháo ăn, hoặc là rắc vào cơm ăn.
Thường ngày em chỉ là "thổi bò", nói bốc!
Liễu Nguyệt đáp:
- Vâng, chúng em đều là trâu bò bốc khoác, chỉ có những người tài
giỏi như anh mới ăn chè, nhưng em thấy A Xán biết ăn chè như vậy, mà sao
lại làm cái chuyện ấy cơ chứ?