ra trong tương lai, Marx đã định nghĩa nó như một quá trình phù hợp với
quy luật đặc biệt của biện chứng. “
Những quy luật biện chứng nêu trên được phân tích trong tập di cảo “Biện
chứng của tự nhiên” (chưa hoàn tất và xuất bản lần thứ nhất vào năm 1925)
cũng như trong “Chống Duhring” đã phác họa một lý luận về tự nhiên của
Engels :
- Nhận thức những quy luật của thế giới tự nhiên độc lập với ý chí và tinh
thần con người.
- Một lý luận về sự phát triển không ngừng của tự nhiên. Sự vật diễn ra
theo một vận động tất yếu, dầu con người chưa nhận thức được.
- Quy luật biến đổi chỉ rõ sự đối lập với chủ nghĩa duy vật máy móc ở chỗ,
vận động của tự nhiên biến đổi từ lượng qua chất, không phải chỉ là những
chất phụ thuộc đơn thuần, sản phẩm của tri giác, nhưng tạo ra những chất
mới, đồng thời những chất cũ mất đi. Quy luật tác động qua lại giữa những
mặt đối lập chỉ rõ tự nhiên là một hệ thống những xung đột và áp lực. Quy
luật phủ định của phủ định chỉ ra sự phủ định không phải chỉ thuần tuý huỷ
diệt, nhưng là một vận động phát triển trong khi huy diệt, lại bảo toàn và
phát triển ở mức độ cao hơn. Vận động này được mô tả như một phát triển
theo đường vòng trôn ốc.
Ảnh hưởng biện chứng tự nhiên của Engels rất phổ biến trong chủ nghĩa
cộng sản hiện đại :
- Người cộng sản thường sử dụng từ “biện chứng” đối lập với từ “siêu
hình” để gán cho những tư tưởng đối nghịch. Phép biện chứng trở thành
một từ ngữ then chốt để chỉ một hình thái tư duy, một hệ tư tưởng chuyên
chính, một triết học mang tính đảng. Trong khi Marx quan niệm thăng hoa
triết học thì ngược lại qua việc xây dựng một thế giới quan duy vật, Engels
đã trở lại những vấn đề cổ điển của triết học, mở đường cho hệ thống triết
học chính thống Xô viết qua “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” của Lênin và “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử” của
Stalin.
- Trong: Chống Duhring, Engels quan niệm ngoại trừ lý luận về tư duy và
những quy luật của tư tưởng (luận lý hình thức và phép biện chứng) còn tất