lằn mông đít, chẳng đứa con nào ưa ông bố hay rượu, dữ đòn.
Cái ngày ông Húc đội trưởng chết thảm bởi đồn trưởng Thuỷ Nhai bắn bỏ,
vợ ông bị lũ lính bắt đi. Hai đứa con khóc thảm thiết bên xác bố, cạnh nền
nhà trơ trọi với đống tro tàn nghi ngút khói. Xác ông Húc đã được ai đó phủ
một manh chiếu. Vũng máu đông đặc bị ruồi nhặng bu kín. Hoà cùng nhiều
dân làng túa đến xem, họ bảo nhau cùng xúm vào chôn cất cho ông ở bãi
tha ma ngoài cánh đồng. Ai cũng mủi lòng, cám cảnh cho hai đứa trẻ con
ông, cái Ngó và cái Sen mới bảy, tám tuổi đã thành trẻ mồ côi. Vợ chồng
bác phó mộc không con nhận đứa lớn làm con nuôi. Bà lão mắt loà sống
độc thân rước đứa bé về ở với mình. Hoà khóc, nước mắt lưng tròng. Anh
có mấy đồng bạc định dành để mua sách cũng đem cho hai đứa trẻ.
Cứ loạn lạc thế này, đến bao giờ mới hết cảnh thương tâm. Dòng chảy suy
tư dẫn Hoà nghĩ tới cháu An. Mẹ con thằng An giờ này ở phương trời nào,
có kiếm đủ miếng ăn không. Chắc là nó không được đi học nữa rồi, khổ
thân – nghĩ như thế, mắt Hoà ươn ướt nước. Và rồi, anh nghĩ tới cái làng
Xuân Giao nhỏ bé của mình. Mấy năm nay diễn ra bao cảnh chết choc, ly
tán vì chiến tranh loạn lạc. Sao trên đời này nhiều khổ đau, lắm nỗi buồn
đến thế.
Trời tối hẳn. Ngọn đèn Hoa Kỳ được thắp lên cũng chỉ đủ tạo thành một
quầng sáng trong căn phòng yên ắng. Với quyển vở, mở ra, những con chữ
nhảy múa chơi vơi trước mắt, Hoà đọc mãi mà chữ nghĩa chẳng nhập tâm.
Phụt tắt ngọn đèn, đập con muỗi đậu trên má, anh ngồi im lặng trong bóng
tối một lúc lâu. Tiếng muỗi vo ve như thổi mãi giai điệu buồn đến không
thể nào chịu nổi. Anh buông màn, lần đầu tiên trong đời học sinh, Hoà lên
giường nằm sớm hơn thường lệ. Cũng lạ thật, từ ngày An rời làng ra đi,
Hoà như thiếu vắng người bạn, anh thường có những giây phút chợt buồn
chợt nhớ.
Thời gian như vó câu qua cửa sổ, Hoà đã là học sinh trung học đệ nhất cấp,