nghiệp làm ăn, sĩ thì vui lòng giúp việc cho Chính phủ, còn ai mưu việc
chống cự nữa. »
Để kết thúc, ông vẽ ra cái viễn tượng hãi hùng, một khi Pháp không
thỏa mãn nguyện vọng của dân để họ « cứ lo ngày đêm, tìm cách nọ kế kia
(chờ khi Nhật tới) ném đi mấy vạn cái đầu, chảy ra mấy mươi vạn vũng
máu, vất đi bao nhiêu cái xác ruồi không thèm bâu, cáo không thèm ăn, để
mua lấy cái địa vị nô lệ mấy trăm đời không thay đổi ».
Nguời Việt Nam có muốn như thế không ? Chỉ có kẻ điên mới khoái
chuyện ấy, nhưng cùng đường, họ còn biết tính sao ngoại trừ khi họ : « …
Còn xem cái chính sách của Chính Phủ Bảo hộ đãi người Nam như thế
nào ».
*
Thực dân ! Quan lại ! Thuế má !
Ba điểm tàn hại căn bản mà chỉ có một cuộc cải cách toàn diện mới giải
quyết được.
Nếu không giải quyết được, Dân phải chết. Dân không muốn chết mòn
chết lần nên đứng lên theo ngọn cờ lãnh đạo của Phan châu Trinh để tự động
Duy Tân.
Trong công cuộc tự động Duy Tân của toàn dân, Phan châu Trinh còn
tiến được một bước xa trên đường đoàn kết dân tộc. Trước đó, Phan bội
Châu và Cường Để vẫn có kết nạp một số hội viện là người Công Giáo.
Nhưng chỉ những cá nhân đã được giác ngộ hoặc hận thù Pháp vì lý do nào
đó. Còn ở Quảng Nam, Nguyễn Thành vốn cựu đảng viên Bình Tây sát tả
nên vấn đề này không thấy đặt ra.
Nhưng với Phan châu Trinh, ông đặt vấn đề giáo dân nói chung chứ
không phải riêng cá nhân nào trong cộng động quốc gia rất rõ ràng.
Sự thật, lúc mới qua, các cố đạo thừa sai cũng có nâng đỡ phần nào
giáo dân như đưa các con chiên ưu tú ra ngoại quốc học (Nguyễn trường Tộ,
Trương vĩnh Ký) làm cho trí thức Việt Nam quan tâm thời cuộc để ý. Nhưng