Toan Ánh 49
Có khi, sau khi vấn đầu, búi tóc, các bà các cô còn cài lên đầu mấy bông hoa như
hoa ngọc lan, (bông sứ), hoa cúc, hoặc hoa ngâu... vừa để lấy mùi thơm vừa để tăng vẻ
đẹp cho mái tóc.
Trong ngày cưới, ngày nay bắt chước phương Tây, các cô dâu để tóc trần hoặc tóc
uốn còn đi trên đầu chiếc ngọc niệm. Có người còn dùng cả chiếc ngọc niệm trong
những đám tiệc tùng họp bạn.
Dưới đầu là hai tai. Ta có tục xâu lỗ tai cho con gái, đế lấy chỗ đeo đồ trang sức.
Các bà, các cô thường đeo hoa tai trằm, nụ thông, cuống giá, khuyên.
Hoa tai, bằng vàng hoặc bằng bạc, có hoặc không gắn mặt ngọc thạch hoặc kim
cương.
Hoa cũng có nhiều kiểu, các cô gái xưa thì đeo hoa cánh bèo tức là chiếc có những
cánh xoè ra. Đôi hoa có gắn mặt đá lóng lánh hoặc kim cương thường làm nổi hẳn
khuôn mặt của người sử dụng.
Ở miền Bắc, phụ nữ nhà quê đeo hoa bằng hổ phách, khi không có hoa vàng, hoa
bạc.
Trằm cũng từa tựa như chiếc hoa, bằng vàng hoặc bằng bạc.
Nụ thông giống như chiếc nụ cây thông, đằng trước xòe ra, đằng sau thót lại để cắm
vào lỗ tai. Nụ thông thường có mặt đá, nhất là màu đỏ, xưa rất được các cô gái quê ưa
chuộng, bằng vàng, bằng bạc hoặc bằng hổ phách.
Cuống giá hình giống như cuống một cọng giá, phía trên ở ngoài vành tai, còn phía
cuống ở trong vành tai. Cuống giá cũng bằng vàng hay bằng bạc được mạ một lượt
vàng.
Khuyên trong Nam gọi là khoen là thứ nữ trang thông dụng nhất của phụ nữ vùng
quê. Khuyên hình tròn đeo lủng lẳng vào lỗ tai.
Khuyên đánh bằng vàng hoặc bằng bạc. Lối khuyên trong Nam đánh mỏng thân,
còn lối khuyên Bắc đánh thân to và tròn, nhiều khi đeo làm trễ cả đôi tai.
Phụ nữ ngày nay đeo nhiều hoa kiểu Âu-tây, bằng vàng, bằng bạc có, mà cũng có
thứ hoa bằng các loại kim khí khác. Ngày nay trên thị trường có bán nhiều loại hoa tai
bằng cao su, bằng ni lông. Những chiếc hoa này có bộ phận kẹp vào trái tai, không cần
có lỗ tai cũng đeo được.
Các bà các cô giàu ưa dùng hoa có gắn mặt kim cương.
Phụ nữ Việt nam chỉ đeo đồ nữ trang ở tai, không giống như nhiều dân tộc khác
gắn kim cương ở trán hoặc đeo vàng bạc ở lỗ mũi.
Đàn bà Việt nam cũng đeo nhẫn ở tay, thường đeo ở ngón tay nhỡ, cùng với chiếc
nhẫn cưới. Các cô chưa lập gia đình đeo nhận có chạm hoa, hoặc đeo nhẫn ở ngón tay
nhỡ, có khi đeo riêng, có khi cùng đeo với một chiếc nhẫn khác có nạm mặt đá hoặc
kim cương hoặc có chạm trổ.
Ngoài nhẫn đeo ở ngón tay, phụ nữ ta còn đeo những đôi vòng, đôi xuyến ở cổ tay,
giàu thì vòng vàng, xuyến vàng, nghèo thì vòng bạc, xuyến bạc. Những chiếc vòng
xuyến có thể trơn hoặc có chạm trổ. Những người giàu có thường nhận mặt kim cương
hay thủy xoàn. Cũng có người nhận ngọc thạch các màu.
Có người đeo vòng ngọc, ngọc thạch màu xanh nhạt có gắn vàng chạm trổ, hoặc
vòng huyền đen nhánh.
Ngày nay, bắt chước Âu-Mỹ, nhiều người đeo "vòng tuần lễ". một bộ gồm bảy
chiếc vòng bằng vàng hoặc kim loại khác, tính theo ngày đeo số vòng: thứ hai, hai
vòng; thứ ba, ba vòng...
Cũng bắt chước Âu-tây, có người đeo ở cổ tay chiếc dây xích có mang khoá, lại có
một mảnh khắc tên mình gọi là chiếc lắc, phiên âm chữ "plaque" của Pháp. Lắc bằng