nhấc một em bé lên và ẵm nó cho người ta làm phép.
Trong bọn tù nhân chỉ có một số ít thấy rõ tất cả những trò lừa dối đang
diễn ra đó và cười thầm trong bụng, còn đại đa số tin rằng có một sức mạnh
huyền bí trong những bức tượng thánh mạ vàng, những cây nến, chiếc
chén, chiếc áo lễ, cây thánh giá, những lời khó hiểu "Jesus rất hiền từ" và
"hãy thương xót": nhắc đi nhắc lại; họ tin rằng nhờ có sức mạnh huyền bí
ấy, họ có thể kiếm được nhiều điều thuận lợi trong cả kiếp nầy lẫn kiếp sau.
Mặc dù đa số trong bọn họ đã nhiều lần thử dùng đèn nến khấn vái mong
kiếm lấy những thuận lợi cho cuộc đời đang sống mà vẫn không được, -
những lời cầu nguyện đã không thành sự thật - nhưng người nào cũng vẫn
tin rằng sự thất bại đó chỉ là ngẫu nhiên, và cái tổ chức nầy đã được bao
nhiêu nhà thông thái và các đức giám mục hoan nghênh thì phải là một tổ
chức rất quan trọng, rất cần thiết, nếu không phải cho kiếp nầy thì cho kiếp
sau.
Maxlova cũng tin như vậy. Cũng như mọi người khác, trong buổi lễ nàng
cảm thấy một cảm giác vừa thành kính vừa buồn nản. Lúc đầu, nàng đứng
giữa đám đông, sau bức vách ngăn, và không nhìn thấy ai khác ngoài các
bạn gái. Đến khi những nữ tù nhân tham gia buổi lễ tiến lên phía trước,
nàng cùng Fedoxia cũng tiến lên.
Nàng nhìn thấy giám ngục và sau lưng ông ta, lọt vào giữa viên cai ngục,
một người nông dân có chòm râu thưa nhạt, mớ tóc hung hung. Đó là
chồng Fedoxia; đang đăm đăm nhìn vợ. Trong lúc bài hát ca ngợi Chúa
được cử lên, Maxlova mải nhìn anh ta và thì thầm với Fedoxia nên nàng chỉ
làm dấu và cúi đầu theo như mọi người mà thôi.