màu hồng nhạt, bài luyện tập có liên quan là đặt chúng trên một tấm thảm
màu đen, xếp chúng thành một cái tháp, hình to nhất đặt ở dưới cùng, rồi
đến miếng gỗ nhỏ hơn, hình nhỏ nhất xếp ở trên cùng. Mỗi lần xếp, trẻ cần
chọn hình to nhất trong số hình khối còn lại trên thảm. Trẻ 2 tuổi rưỡi rất
nhiệt tình với trò chơi này. Mỗi khi vừa xếp xong một cái tháp, bọn trẻ lại
nhẹ nhàng xô đổ nó, khoái chí nhìn những miếng gỗ màu hồng nhạt lộn xộn
rơi xuống tấm thảm màu đen, sau đó lại bắt đầu xếp toà tháp, chúng sẽ lặp đi
lặp lại trò chơi này.
Nếu như cho một đứa trẻ 3, 4 tuổi của chúng tôi cùng tiến hành thực
nghiệm này với một học sinh lớp 1 khoảng 6, 7 tuổi, đứa trẻ của chúng tôi
chắc chắn sẽ phản ứng nhanh hơn, cũng có thể chọn ra những miếng xếp
hình lớn nhất và nhỏ nhất nhanh hơn và không hề mắc bất kì lỗi nào. Đối
với thực nghiệm về màu sắc, xúc giác khác... cũng như vậy.
Sự thật này đã phá tan nền móng của đo lường tâm lí học, cũng đã làm
dao động cơ sở tâm lí học thực hành dựa vào các hình thức trắc nghiệm.
Chúng đã sắp đặt trước đẳng cấp trí tuệ cho mọi lứa tuổi, nhưng bởi vì tư
chất của mỗi người khác nhau, nên mức độ trí tuệ cũng thể hiện muôn ngàn
khác biệt.
Vì vậy, phương pháp giáo dục của chúng tôi bắt đầu nhận được sự coi
trọng của mọi người, thậm chí là sự coi trọng của một số người ủng hộ Tâm
lí học thực nghiệm. Họ hi vọng thông qua phản ứng trong nháy mắt để xác
định năng lực ý chí, trí tuệ của một người, cũng như hi vọng thông qua một
yếu tố riêng biệt để xác định sự phát triển của chỉnh thể, tương tự việc đo
chiều cao của một người để xác định tình trạng phát triển cơ thể của người
đó ở mỗi lứa tuổi khác nhau. Huấn luyện hệ thống giác quan có thể phá huỷ
tiêu chuẩn này và chứng minh nó không có cách gì mang đến thông tin hoàn
chỉnh liên quan đến phát triển tâm lí.
Nếu như có người định lợi dụng Tâm lí học thực nghiệm tiến hành cải
cách đối với phương pháp dạy học thì có thể càng làm rõ hơn sai lầm mang
tính nguyên tắc của nó. Nếu như chúng ta cần xây dựng một cánh cửa khoa