bên trái, có lúc lại ở bên phải để đề phòng trẻ em bị lệch đường nét khi vẽ.
Cuối cùng, đường biên giới còn lại cũng được xoá nốt, sau đó xoá tiếp đến
hai chấm, bắt đầu từ chấm ở trên trước, nó là khởi điểm của tay và đường
vẽ. Với phương pháp này, trẻ em có thể học mà hoàn toàn không cần dùng
đến sự hỗ trợ nào, có thể tự vẽ đường thẳng không cần dùng tới điểm tham
khảo nào.
Khi dạy trẻ em vẽ đường thẳng ngang, cũng dùng phương pháp như vậy,
đã gặp phải khó khăn như vậy và cũng đã dùng phương tiện hỗ trợ như vậy.
Nếu như may mắn, nửa trước của đường thẳng chúng vẽ sẽ rất tốt, nhưng từ
đoạn giữa đến phần cuối lại sẽ có chút cong, đây là một khuynh hướng tự
nhiên, nguyên nhân của nó tôi đã nói đến ở trên. Nếu như chỉ dựa vào
những điểm cách xếp theo thứ tự không thể làm cho đường vẽ của trẻ duy trì
ngang được, thì phải cần đến hai đường song song hoặc thước kẻ để trợ
giúp.
Cuối cùng, trẻ em cần học vẽ một đường ngang, cùng với một đường
thẳng đứng tạo thành một góc vuông. Như vậy trẻ sẽ có thể bắt đầu hiểu
được hàm ý của đường thẳng, đường ngang và suy đoán ra mối quan hệ của
hai loại đường vẽ cơ bản này, chuẩn bị tốt cho việc học vẽ hình vẽ.
Theo thứ tự sinh ra của đường nét, sau khi đã học đường thẳng và đường
ngang, có lẽ cần phải tiếp tục học đường chéo, nhưng tình hình lại không
như vậy. Một đường chéo, cùng với đường thẳng và đường ngang đều tạo
thành góc độ nhất định, thuộc tính của nó giống với hai đường trước, đều là
một đường thẳng. Do nó có mối quan hệ quá phức tạp với mặt phẳng và hai
đường thẳng khác, vì vậy trẻ em còn cần phải chuẩn bị một bước nữa mới
có thể hiểu được khái niệm này.”
Séguin tiếp tục dùng mấy trang nữa để miêu tả ông đã cho học sinh của
mình luyện tập vẽ đường chéo theo nhiều cách trong phạm vi tạo thành của
hai đường song song như thế nào. Sau đó, ông đã miêu tả bốn kiểu đường
cong, hai kiểu chia ra vẽ ở hai bên trái phải của một đường thẳng, hai kiểu
còn lại vẽ ở trên dưới hai bên của một đường ngang. Ông đã tổng kết: