nhận, thì lại không đóng một vai trò gì. Lời kêu gọi được đưa ra chủ
yếu liên quan đến nền chính trị đối nội hiện nay. Ở Đức, về nguyên
tắc, đồng tính đã được xã hội thừa nhận. Còn ở Nga, sự thừa nhận
đang ở mức độ thập niên 1950 của Cộng hòa Liên bang Đức, khi mà
đồng tính nữ và nam bị công khai lên án. Hơn thế nữa, trước năm
1973, đồng tính luyến ái bị coi là tội hình sự ở Đức, và chỉ đến năm
1994, Quốc hội Đức mới bãi bỏ đoạn 175 nổi tiếng mà dựa vào đó,
hàng chục nghìn người từng đã bị kết án bởi tòa hình sự.
Ấn bản Taz phát hành với tiêu đề: “Ở đó, nỗi sợ đồng tính - là chủ
đạo” đã mô tả khá chính xác tình hình (87). Ở Nga, hơn 2/3 dân số
chống đồng tính luyến ái. Không một phê phán nào từ phía bà Merkel,
không một cảnh báo nào về hiểm họa của những chuyến đi đến nước
Nga đối với những người ủng hộ tình yêu đồng giới từ phía Bộ Ngoại
giao Đức, tác động được xã hội Nga. Duma không bác bỏ đạo luật -
các đại biểu ở Moskva, cũng như đồng nghiệp họ ở Berlin, không có
khuynh hướng tự sát chính trị. Bản án công khai từ phía Đức không
giúp được gì nhiều cho phong trào đồng tính. Nó phải tiến hành cuộc
đấu tranh gian khó trong xã hội Nga trong vòng vài thập niên nữa để
có thể đạt được dù chỉ chút ít quy chế được thừa nhận. “Phương Tây
cứ theo suy nghĩ của mình, cho dù chúng tôi thích hay không thích”,
cha Tikhon, cố vấn Putin về các vấn đề tinh thần nói, “và ở một số
điểm, ý kiến của chúng ta luôn sẽ khác nhau”.
“Dĩ nhiên”, ông thừa nhận, “hôn nhân đối với những người đồng
tính, đó là vấn đề tổ chức cuộc sống riêng, thế nhưng, từ quan điểm
Giáo hội Chính thống giáo Nga, một cuộc hôn nhân như thế dứt khoát
không thể được chấp nhận”. Còn trong trường hợp, nếu Nhà nước Nga
công nhận cuộc hôn nhân đó, điều đó, theo lời cha Tikhon, không là gì
khác hơn “con đường trực tiếp dẫn tới suy đồi”. Quan điểm này của
cha Tikhon hoàn toàn trùng hợp với ý kiến của Giáo hội Công giáo.
Sau đó, Tu viện trưởng kể một câu chuyện để minh họa cho cái
nhìn thực tiễn của Putin đối với đề tài này. Một lần nọ, khi họ dùng