ông vua không quyền. Thế mà Nghiêm trở tay, nắm được Cửu-chân, Quế-
lâm, rồi dần dần nắm hết sáu quận. Bấy giờ Nghiêm mới thu hết quân lính
của các Thái thú. Gần đây, Mã thái hậu kiếm chuyện với Nghiêm. Nghiêm
vẫn hóa giải được. Người như thế, Đào hiền đệ phải tìm cách gần y để học
lấy bản lĩnh đó. Sau này, phục quốc sẽ cần dùng tới.
Phương Dung nhìn xa xa, hỏi Đào Kỳ:
– Đào đại ca, Trưng sư tỷ, cũng như các cao nhân Lĩnh Nam như Nguyễn
Tam Trinh, cha và các sư thúc của em cũng không hiểu nổi: Tại sao
Nghiêm Sơn cứ tìm cách thải dần quan lại người Hán, rồi tuyển người Việt
vào thay thế. Em có cảm tưởng như Nghiêm là người Việt, định biến Lĩnh
Nam trở lại thời Hùng-Vương, An Dương vương vậy. Đại ca có biết
không?
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
Trưng Nhị tiếp:
– Tại Luy-lâu còn có phủ Thái-thú của Tô Định, và ty Tế-tác dưới quyền y.
Còn phủ Đô-úy, coi về quân sự thì đóng ở Long-biên. Đô-úy hiện là Lê thái
sư thúc của chị.
Đào Kỳ hỏi:
– Hiện quân đội của người Hán có bao nhiêu?
Trưng Nhị đáp:
– Tại mỗi quận thì có một Quân, tức khoảng 12,500 người, phân nửa là
Quân kỵ. Đó là lực lượng từ Trung-nguyên mang sang. Mỗi châu, huyện
còn có 5 Sư, tổ chức theo lối hỗn hợp, cứ hai người Hán thì có ba người
Việt. Như vậy, mỗi quận lực lượng hỗn hợp có khoảng 12,500 quân nữa.
Tại mỗi huyện thì có một Sư người Hán 2,500 quân, toàn kỵ binh. Và, tùy
theo huyện lớn nhỏ, có từ một Sư hoặc một Lữ theo lối hỗn hợp một người
Hán, bốn người Việt. Trong các châu, trang, động thì các Lạc-hầu, Lạc-
tướng có tráng đinh riêng. Người nào yêu nước thì dùng tráng đinh giữ
trang, ấp mình. Người nào bán rẻ lương tâm thì dùng tráng đinh để làm tay
sai cho người Hán.
Đào Kỳ tính nhẩm:
– Tính tổng cộng, sáu quận, họ có 6 Quân, 75,000 quân Hán, 75,000 quân