dùm hai đứa cháu nhỏ. Nhất thiết tiểu hữu không được rời nhà này đi đâu,
cũng không được ngưng tập một ngày, vì bệnh tình tiểu hữu hiện chưa khỏi
hẳn.
Đào Kỳ nhất nhất ghi nhớ.
Hàng ngày, chàng cùng Quỳnh và Quế dậy sớm tưới cây thuốc, sau đó
chàng ra sông luyện võ. Trưa về ăn cơm, chiều lại ra sông luyện tiếp. Tối
hôm đó, trăng lưỡi liềm lơ lững lưng trời, Quỳnh, Quế muốn Đào Kỳ đánh
xe đưa chúng đi chơi. Từ hôm Đào Kỳ gặp hai cô bé, chàng cảm thấy như
được hai cô em gái. Hai cô bé nói gì, chàng cũng chiều ngay. Chàng đánh
xe, Quế chỉ đường. Chiếc xe đi dưới trăng, trời trong không một chút mây.
Chàng chợt nhớ tới Thiều Hoa, Phương Dung không hiểu giờ này ra sao?
Còn phủ Lĩnh Nam công hay đi chỗ khác?
Xe đi một quãng nữa thì Quỳnh chỉ vào một ngôi nhà nói:
– Đây là đền thờ Hùng-vương.
Chàng nhìn theo tay Quỳnh, thấy ngôi đền khá quen thuộc. Chàng suýt bật
lên tiếng kêu, vì, đó là ngôi đền trước đây chàng thường từ trang Thái-hà
trốn ra luyện võ. Vậy, từ nhà của Khất đại phu đến trang Thái-hà không xa
là bao. Chàng nhẩm tính lại, chỉ còn 13 ngày nữa là đại hội Tây hồ rồi,
không biết tới hôm đó chàng đã khỏi bệnh chưa? Có đi dự được không?
Chàng hy vọng tại đại hội này, chàng sẽ gặp lại cha mẹ, cậu, chú, sư huynh,
sư đệ cũng như những người thân thuộc khác.
Chàng đánh xe trở về, tự nhủ:
– Tối nay, chờ Quỳnh, Quế ngủ rồi, ta phải trở lại trang Thái-hà dò thám
xem tình hình ra sao mới được.
Về tới nhà, chàng vào phòng ngủ, thay quần áo, đeo kiếm vào lưng, đợi
khuya mới ra khỏi nhà, hướng trang trại Thái-hà đi tới.
Chàng ngẫm nghĩ:
– Ta rời Thái-hà trang đã gần ba năm, không biết trong trang đã có gì thay
đổi? Ta hiện đã lớn, người trong trang không nhận được ta nữa. Nhưng ta
cần dấu diếm tông tích thì hơn.
Chàng xé vạt áo, che mặt lại cẩn thận, rồi cứ lần theo con đường cũ vào
trang không khó khăn gì lắm. Chàng lần mò đến phía đại sảnh, thấy đèn