Trung-tín hầu đánh tan quân Tần.
Mọi người theo Lê Chân vào một khu lòng chảo, thấy trê góc núi có một
tấm bia đá rất lớn, tạc một bài ký. Phương-Dung lớn tiếng đọc :
Đại phàm, vạn sự ở thế gian đều do thượng đế sắp đặt. Xưa kia vua Đế
Minh cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-
lĩnh gặp Tiên nữ, kết hôn với nhau, sinh được Thái-tử đặt tên là Lộc Tục.
Vua Đế Minh ở với Tiên ít lâu rồi trở về phương Bắc. Ngài truyền các quan
lập đàn tế trời rồi thề rằng :
"Ta nhất sinh có nhiều cung tần mỹ nữ, nhưng chỉ sinh có một Thái tử. Sau
lại kết hôn với Tiên nữ ở Động-đình hồ mà có thêm Lộc Tục. Vậy ta phong
Thái tử làm vua phương Bắc đến núi Ngũ-lĩnh. Từ núi Ngũ-lĩnh về Nam,
gọi là Lĩnh-nam, phong cho Lộc Tục làm vua. Trước đất trời nguyện rằng :
Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm
Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương ".
Kể từ đấy thiên hạ chia đôi. Bắc do vua Đế Nghi cai trị. Nam do Thái tử lên
ngôi, hiệu là Kinh-dương vương. Nước Lĩnh-nam phía Bắc tới Động-đình
hồ, phía Nam giáp với nước Hồ-tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, Đông giáp
biển Nam-hải. Kinh-dương vương kết hôn với con gái của Động-đình quân
là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm kế tục ngôi vua lấy hiệu là
Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với Công chúa Âu Cơ con vua Đế
Lai, sinh được trăm con. Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng làm
vua, hiệu là Hùng vương, đặt tên nước là Văn-lang. Lại phong 99 con mỗi
người làm chủ một ấp, vì vậy đất Lĩnh-nam mới có trăm họ. Đó là nguồn
gốc Bách-việt vậy.
Nước Văn-lang chia làm 15 bộ :
Văn-lang Tân-hưng
Lục-hải Giao-chỉ
Hoài-hoan Châu-diên
Vũ-định Ninh-hải
Cửu-chân Cửu-đức
Phú-lộc Vũ-ninh
Dương-tuyền Nhật-nam