cái hố bé nhỏ, chỉ lo nhỡ có quả nào rơi trúng hố thì toi đặc. Cát rơi rào rào
xuống đầu xuống cổ, mảnh đạn văng khắp nơi, cắm lịch xịch trên nóc hố.
Dứt đợt pháo kích, hai đứa chui ra củng cố lại hầm hố, đắp thêm cát lên cho
dày.
Buổi chiều chúng tôi lại bò đi sục sạo kiếm ăn. Nắng vàng đẹp. Chiếc
máy bay do thám OV-10 vẫn hát điệu o...o...o muôn thuở. Hai đứa chợt
nhìn thấy sát mép lạch nước có một cái túi dết rằn ri căng phồng. Chính
muốn xuống lấy ngay, nhưng tôi muốn ngăn lại vì rất nguy hiểm: phải bò
lên khỏi hào rồi trườn xuống mép nước giữa ban ngày. Tuy nhiên chưa kịp
nói gì thì Chính đã nhanh nhẹn trườn lên, lăn mình chộp lấy cái túi và thoắt
cái đã lăn lại xuống hào. Hai đứa hăm hở mở túi ra. Trong đó có 1 cái chăn
dù thám báo ruột bằng sợi tổng hợp rất nhẹ và ấm, một cái võng dù thủng
lỗ chỗ, mấy cái ảnh đầm khỏa thân, một số ảnh kỷ niệm gia đình cùng thư
từ....
Ngoài ra còn có bông băng, kim chỉ và một phù hiệu Thủy quân lục
chiến rất đẹp. Khi trở về hai đứa quyết định sửa lại cái hầm của Chính để
dùng chung. Chúng tôi đào mở rộng ra, xếp đá xung quanh, lát nóc bằng
súng M72, lấy võng dù ngụy phủ lên rồi lấp cát lại. Bây giờ thì thoải mái
rồi. Tôi đi lột cái chăn sợi ở hầm cũ của tôi về để đến đêm hai đứa đắp
chung.
Ăn cơm tối xong, anh Thanh phân công tôi gác từ 20h đến 21h30.
Đêm trăng mờ mờ. Tôi bò vào một ngách hào, ló đầu nhìn sang phía địch.
Khoảng cách hai bên khá gần, chừng 50m chứ mấy, chúng nói to là có thể
nghe thấy. Nhưng chỉ thấy những ụ cát im lìm. Phải nói hai ngày nay chúng
tôi gặp may, vì không phải chiến đấu. Chắc sau những trận giao tranh dữ
dội giữa Tiểu đoàn 2 E48 và C9 D3 E48 của ta với Tiểu đoàn 4 “Kình ngư”
của Thủy quân lục chiến, cả hai bên đều đã thấm mệt.
Lúc chiều thấy địch bắn pháo khói nhiều, che phủ khắp trận địa. Hình
như chúng đã đưa Tiểu đoàn 2 “Trâu điên” vào thay Tiểu đoàn 4. Bọn này