phải phát súng khác chứ”! Quả thật vừa rồi trên đường hành quân nhiều cậu
quăng quật súng ghê quá, sợ có khẩu bị cong nòng.
Tiểu đoàn 60 đã mang súng đi nộp từ chiều, giờ đến lượt tiểu đoàn tôi.
Tất cả phải đi trả súng, mỗi A chỉ để lại một người trông đồ đạc. Anh Đạm
gọi tôi xuống, bảo tôi nằm vào cái võng ni-lông của anh mà nghỉ, và trông
nồi xoong bếp núc luôn.
Buổi tối nào cũng vậy, khi tất cả nằm vào võng là tiếng chửi nhau
vang lên í ới. Thật là một cách giải trí kỳ quặc. Chửi nhau không phải vì
xích mích nhau, mà chỉ để cho đỡ buồn. Chửi lẫn nhau chán, lại réo tên B
trưởng các B khác để chửi. Chẳng hạn lính B1 đồng thanh hô: “Bính
“tẩm“!” (Bính là B trưởng B2), thì lính B2 đồng thanh hô lại: “Trọng “say
rượu“!” (Trọng là B trưởng B1). Cán bộ đã nhắc nhở mãi nhưng chẳng ăn
thua gì.
Hôm sau anh Bính lệnh cho những người nằm gần khe suối phải di
chuyển lên chỗ cao hơn. Anh giải thích là máy bay địch hay đánh dọc khe
suối. Như vậy là tôi, Duy Minh và Lâm Thành phải chuyển đi. Chúng tôi
rất bực, Lâm Thành chửi đổng ầm ĩ. Tôi và Duy Minh cuốn đồ lề leo tít lên
cao, nơi chưa có ai ở cả. Sau một buổi phát quang cật lực, rồi cũng được
một chỗ nằm tươm tất, hai đứa mắc võng châu đầu vào nhau. Sau đó tôi đi
kiếm củi, nhân dịp nhòm ngó tìm hiểu khu vực xung quanh luôn. Khắp nơi
cứt đái vung vãi, toàn cây lá nón, không một bóng người. Tôi nảy ra ý định
thử súng, để xem khẩu súng của tôi qua một hành trình như vậy có bị kém
chính xác đi không? Thế là nhằm đỉnh đồi bươn tới, luồn qua các bụi cây
rậm rạp và nhiều dây leo chằng chịt. Có lúc cũng hơi sợ, nhỡ quơ phải một
con rắn hay đạp phải một con trăn thì sao? Đi hồi lâu tới một khe đá cạn,
đoán từ đây tiếng súng khó lọt tới nơi đóng quân, tôi bèn dừng lại, rồi chọn
một cái cây bằng bắp chân làm đích. “Đoành đoành!”, cây súng nẩy lên
trên tay. Tôi chạy tới xem, hai viên đạn đều trúng cây, nhưng lỗ trên cách lỗ
dưới tới 50cm. Phấn khởi, tôi bắn tiếp “Đoành đoành”. Mùi thuốc súng tỏa