Quốc gia khởi nghiệp Ebook.vn
viên bắt đầu biểu tượng hóa sự chịu đựng gian khổ và loại bỏ tính lễ nghi, sự theo đuổi bình
đẳng triệt để của họ đã sản sinh ra chủ nghĩa khổ hạnh. Ví dụ tiêu biểu là Abraham
Herzfield, một lãnh đạo phong trào nông trang trong những năm đầu tiên của nhà nước
Israel, người cho rằng việc xả nước nhà vệ sinh là sự suy đồi không thể chấp nhận được.
Ngay cả trong một nước Israel nghèo khổ và bị vây hãm của những năm 1950, khi những
nhu yếu phẩm cũng bị giới hạn, bệ xí xả nước vẫn được xem là tiện nghi phổ thông trong
mọi khu dân cư và thành phố của Israel. Người ta đồn rằng khi chiếc bệ xí đầu tiên được lắp
tại một nông trang, Herzfield đã tự tay dùng rìu phá tan nó. Nhưng đến những năm 1960,
ngay cả Herzfield cũng không thể chống lại sự tiến bộ, và hầu hết các nông trang đều lắp đặt
nhà vệ sinh có xả nước
[79]
.
Mô hình nông trang có tính chất tập trung và dân chủ cao độ. Mỗi câu hỏi của vấn đề tự
quản, như trồng cây gì hay thành viên có nên sở hữu tivi đều được đưa ra thảo luận không
dứt. Shimon Peres nói với chúng tôi: “Tại nông trang không có cảnh sát, không có tòa án.
Thời tôi làm thành viên ở đó, người ta không có tiền riêng; và thậm chí còn không có cả thư
riêng trước lúc tôi đến. Thư gửi đến và ai cũng được đọc”.
Có lẽ điều gây tranh cãi nhất là việc trẻ em tại nông trang được tất cả mọi người nuôi
dưỡng. Tuy mỗi nơi mỗi khác, nhưng hầu hết các nông trang đều có những “nhà trẻ”, ở đó
trẻ em cùng chung sống và được các thành viên trong nông trang chăm sóc. Tại hầu hết các
nông trang, trẻ con được gặp cha mẹ của chúng vài tiếng mỗi ngày, nhưng chúng ngủ cùng
bạn bè, chứ không phải ở nhà cha mẹ.
Sự trỗi dậy của nông trang một phần là kết quả của những đột phá trong công nghệ và nông
nghiệp do các nông trang và trường đại học của Israel thực hiện. Sự chuyển dịch từ những
khó khăn khắc nghiệt và những lý tưởng không thể lay chuyển của thế hệ lập quốc cũng
như chuyển dịch từ việc cày bừa sang công nghiệp tiên tiến là điều có thể quan sát được tại
một nông trang như Hatzerim. Nông trang này, cùng với 10 khu định cư nhỏ và biệt lập
khác, đã được dựng lên chỉ trong một đêm tháng 10 năm 1946, khi Haganah, lực lượng
quân sự chính của nhà nước tiền Do Thái muốn thiết lập sự hiện diện của mình tại những
điểm chiến lược ở khu vực phía nam sa mạc Negev. Khi bình minh ló dạng, năm người phụ
nữ và 21 người đàn ông được phái đến để xây dựng cộng đồng, thấy mình đang đứng trên
một ngọn đồi khô cằn và hoang dã, chỉ thấy một cây keo duy nhất ở phía chân trời.
Phải mất một năm trước khi nhóm quản lý xây dựng đường ống có đường kính 6 inch dẫn
nước từ khu vực cách đó 40 dặm. Trong suốt Cuộc chiến Độc lập năm 1948, nông trang
Hatzerim đã bị tấn công và cắt đứt nguồn nước. Thậm chí sau khi cuộc chiến kết thúc, do
đất bị nhiễm mặn, khó canh tác mà vào năm 1959, những thành viên nông trang đã tranh
cãi về chuyện đóng cửa Hatzerim để chuyển đến địa điểm khác có môi trường thân thiện
hơn.
Nhưng cuối cùng, cộng đồng này đã quyết định ở lại khi nhận ra vấn đề đất nhiễm mặn
không chỉ ảnh hưởng đến Hatzerim mà hầu như là toàn bộ vùng Negev. Hai năm sau, thành
viên quản lý nông trang Hatzerim đã thau rửa đất đai tới mức có thể trồng trọt được. Tuy
nhiên, đây chỉ mới là những đột phá đầu tiên của Hatzerim cho chính họ và cho cả quốc gia.