đây về thời đại của châu Á hoặc thậm chí thế kỷ của châu Phi trở nên vớ
vẩn.
Một trong các mục tiêu của sách này là giúp chúng ta tránh bàn về nền
kinh tế thế giới trong tương lai vô định, mà dựa vào một mốc thời gian thực
tiễn hơn từ 5 đến 10 năm và có khả năng nhận diện những cuộc bùng nổ
tăng trưởng, suy sụp và phản kháng kế tiếp. Những dự đoán cho 20 năm
hoặc 100 năm sắp tới là bất khả thi do các đối thủ mới về kinh tế có thể trỗi
dậy trong vòng 5 năm, như Trung Quốc trong những năm đầu thập niên
1980, như các nước Đông Âu trong những năm 1990 và nhiều nước châu
Phi trong những năm 2000. Trong bất kỳ khoảng thời gian 5 năm nào, một
công nghệ mới có thể đột nhiên xuất hiện, như Internet trong những năm
1990 và kỹ thuật sản xuất số như in 3D hiện nay.
Trong thời hậu chiến, thậm chí 28 giai đoạn tăng trưởng lâu nhất ở mức
“siêu nhanh” – với GDP bình quân đầu người cao hơn 6% một năm – đã kéo
dài trung bình chưa đến một thập niên.
Vì vậy, chuỗi này diễn ra càng lâu
thì càng sớm kết thúc. Khi một quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, hoặc
Ấn Độ có được một thập kỷ tăng trưởng mạnh, các nhà phân tích chớ nên
tìm lý do khiến chuỗi tăng trưởng này tiếp diễn mà hãy tìm thời điểm chu kỳ
này đảo chiều.
Xu hướng tin rằng giai đoạn tốt đẹp sẽ kéo dài mãi được khuếch đại bởi
một hiện tượng gọi là “khởi điểm thiên lệch”. Các cuộc đàm luận có xu
hướng nảy nở dựa trên khởi điểm (tức điểm tựa) của câu chuyện. Vào những
năm 2000, những người ủng hộ cạnh tranh kinh tế toàn cầu đều tin rằng sự
tăng trưởng GDP hằng năm ở mức hai chữ số là bình thường đối với Trung
Quốc và rằng tỷ lệ cao hơn 7% là mức chuẩn ở các nền kinh tế mới nổi. Các
tỷ lệ siêu cao ấy là chưa từng có nhưng đã trở thành khởi điểm để đàm luận.
Năm 2010, quan điểm cho rằng thế giới mới nổi sắp chứng kiến tỷ lệ tăng
trưởng trung bình giảm xuống 4% là quá thấp so với khởi điểm, và dường
như phi lý, mặc dù 4% là tỷ lệ tăng trưởng trung bình của các nền kinh tế
mới nổi trong thời hậu Thế chiến II. Nói chung, khởi điểm của dự báo dựa
trên dữ liệu xác đáng càng xa trong quá khứ thì khả năng xác định mô thức