lại. Người ta tiếp nhận tác phẩm này ở nhiều tầm cỡ khác nhau: là một
truyện kể thông thường với những nhân vật rất sâu sắc, là một tác phẩm
văn học kiệt xuất, thậm chí là một bản kinh thánh. Trình độ hiểu biết của
người ta càng phát triển, người ta càng tìm ra được ý nghĩa tinh vi của tác
phẩm; tính chất tượng trưng đã được xác định và soi rọi vào trong cuộc
sống hàng ngày. Ramayana, theo nghĩa đầy đủ nhất của từ, có thể gọi là
một quyển sách “triết lý trường cửu”.
Tác phẩm Ramayana đã đem lại những bài học trong việc đưa ra
những động cơ, những tác động hoặc phản tác động có thể vận dụng cho tất
cả các thời đại và cho tất cả các điều kiện khác nhau trong cuộc sống. Ngày
nay, chúng ta nhìn thấy Ravana – lực lượng chống đối suy đồi, tội lỗi –
không phải chỉ trong phạm vi những quyền lực về kinh tế, chính trị và quân
sự, mà còn trong những đơn vị xã hội và gia đình thấp kém hơn, ít lộ liễu
hơn và ở nhiều mức độ khác nhau, chúng ta phát hiện được một Rama ra
sức chống Ravana để lập lại hòa bình và công lý.
Dấu ấn của Ramayana đối với một nhà thơ, đi xa hơn là việc xây dựng
tác phẩm riêng của mình; nó gợi hứng cho nhà thơ viết lại bản anh hùng ca
bằng ngôn ngữ riêng của mình với phong cách của chính mình. Do đó
Ramayana đã là nguồn cảm xúc lớn nhất cho các nhà thơ Ấn Độ qua các
thế kỷ. Ấn Độ là một nơi có nhiều ngôn ngữ, mỗi ngôn ngữ thống lĩnh một
vùng đất riêng, và trong mỗi ngôn ngữ như vậy, có một bản Ramayana lưu
hành, độc đáo và rực rỡ, tập hợp hàng triệu độc giả biết thứ ngôn ngữ đó.
Thế là chúng tôi đã có những bản Ramayana lâu đời bằng tiếng Hindi, tiếng
Bengali, tiếng Assami, tiếng Ôri-i-a, tiếng Tamin, tiếng Kan-na-đa, tiếng
Kasơmia, tiếng Têlêgu, tiếng Malayalam, đó là chỉ mới kể một ít thôi.
Những trang tiếp theo đây là dựa trên bản Tamin của một nhà thơ ở
thế kỷ 11, tên là Kamban. Tamin là một ngôn ngữ rất cổ của bộ tộc
Dravidien, có hơn 40 triệu người sống ở Nam Ấn Độ sử dụng, và có những
giá trị văn hóa, văn học riêng của nó.