mở cánh cửa dẫn vào phòng thay đồ ở hậu trường mà không ai hay biết.
Những người phụ trách đạo cụ và phục trang chẳng mấy để mắt đến ông ta.
Ông ta gõ cánh cửa ở cuối gian sảnh bằng đầu bịt bạc của chiếc ba-toong.
Cánh cửa mở ra, dẫn vào một phòng thay đồ chật chội với gương treo
khắp xung quanh, mỗi cái phản chiếu một góc của Prospero.
Áo đuôi tôm của ông vứt bừa trên ghế bành bọc nhung, gi-lê không cài
khuy khoác ngoài áo sơ-mi tua rua. Cái mũ chóp cao, vật nổi bật trong buổi
biểu diễn, được đặt trên giá treo mũ bên cạnh.
Khi đứng trên sân khấu người đàn ông đó trông trẻ hơn, tuổi tác được vùi
lấp trong ánh đèn và dưới những lớp trang điểm. Khuôn mặt trong gương
giờ đã có nếp nhăn, và mái tóc đã chuyển màu muối tiêu rõ rệt. Nhưng vẫn
còn nét tươi trẻ trong nụ cười giãn ra khi Prospero nhác thấy người đàn ông
đứng ở ngưỡng cửa.
“Anh không thích phải không?” ông hỏi mà không rời mắt khỏi gương,
chỉ nói với hình dáng màu xám phản chiếu như một bóng ma trong gương.
Ông tẩy trang phần lớn phấn trên mặt bằng chiếc khăn tay chắc trước đây có
màu trắng.
“Hân hạnh được gặp anh, Hector,” người đàn ông mặc đồ xám nói, lặng lẽ
đóng cánh cửa phía sau lại.
“Dám chắc rằng anh dị ứng đến từng phút một,” Hector Bowen vừa nói
vừa cười lớn. “Tôi đã để ý đấy nhé, cho nên không phải chối.”
Ông quay lại và chìa một tay ra nhưng người đàn ông mặc đồ xám không
bắt. Đáp lại, Hector nhún vai và vẫy mạnh mấy ngón tay, chỉ hướng bức
tường đối diện. Chiếc ghế bành nhung trượt ra từ một góc đầy ních những
hòm xiểng và khăn quàng, trong khi đó tấm áo đuôi tôm lơ lửng bay lên
khỏi ghế như một cái bóng, ngoan ngoãn tự mắc mình vào tủ áo.
“Mời ngồi,” Hector nói. “Nhưng e là không êm ái bằng mấy cái ghế ở gác
trên đâu.”