được lửa.
“Muộn rồi,” Poppet kêu lên khi họ đi từ căn lều này sang căn lều khác.
“Cậu có phải về nhà không?”
“Tớ có thể ở thêm một lúc,” Bailey nói. Cậu đã trở thành chuyên gia trong
việc lẻn vào nhà mà không đánh thức ai dậy, vì thế mỗi đêm cậu đã ở trong
rạp xiếc muộn thêm một chút.
Vào giờ này, khách lượn quanh rạp xiếc đã thưa hơn, và khi họ đi qua,
Bailey nhận ra nhiều người đang quàng khăn đỏ. Khác kiểu, từ khăn len dày
tới lụa mềm, nhưng đều là một màu đỏ thắm trông thậm chí còn rực hơn trên
nền đen và trắng.
Cậu hỏi Poppet về điều này, khi có quá nhiều sắc đỏ lướt qua đến mức cậu
chắc chắn rằng đó không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, và nhớ lại cô gái
cầm bông hồng cũng có một chiếc khăn quàng màu đỏ.
“Đó giống như là đồng phục ấy,” cô nói. “Họ là những kẻ mộng mơ. Một
vài người trong số họ đi theo rạp xiếc. Họ luôn ở lại muộn hơn những người
khác. Màu đỏ là cách để họ nhận ra nhau.”
Bailey cố hỏi nhiều hơn về những kẻ mộng mơ và những chiếc khăn của
họ, nhưng trước khi cậu kịp hỏi thì Poppet đã lôi cậu vào một căn lều khác
và ngay lập tức cậu không thốt nên lời bởi quang cảnh đập vào mắt cậu ở
bên trong.
Cảm giác gợi cho cậu về đợt tuyết rơi đầu tiên của mùa đông, trong những
giờ đầu tiên ấy, khi mọi vật đều được rắc một màu trắng, mềm mại và yên
ắng.
Mọi thứ trong căn lều này trắng tuyền. Chẳng có thứ gì màu đen, kể cả
những đường kẻ trên bức vách. Một màu trắng gần như lóa mắt, lung linh.
Có cây, hoa và cỏ quanh những lối đi rải sỏi uốn lượn, mỗi chiếc lá và cánh
hoa đều là màu trắng không tì vết.