Tôi khép hờ mắt, hát rất khẽ, gần như lí nhí:
Some say love, it is a hunger, an endless aching need
I say love, it is a flower
And you, it’s only seed...
Tôi đang làm gì vậy? Nhân cơ hội bày tỏ tình cảm ư?
Với Trình Dịch sao? Hay với anh Nhân Kỳ?
Giữ dây đàn, len lén nhìn sang anh, tôi không hát nữa, mặt bắt đầu đỏ ửng
lên.
“Sao em không hát tiếp?” Anh hỏi.
“Em quên đoạn sau rồi...” Tôi cúi đầu.
“Em có muốn luyện thêm không, hôm biểu diễn báo cáo có thể biểu diễn bài
này.” Anh khẽ gảy đàn, tiếp tục đánh những nốt tôi bỏ dở.
“Em không hợp hát The rose, đây là bài em không thể nào xử lý được.” Tôi
lắc đầu.
Bài hát này vốn do Bette Midler hát, giọng hát trầm ấm động lòng người,
còn giọng tôi lại mỏng đến mức chỉ cần chạm vào sẽ vỡ tan.
“Nhưng anh thấy, em rất hợp hát bài này! Không phải theo cách của Bette
Midler, mà theo phong cách của riêng em, phong cách của Vương Hiểu Hạ! Nếu nói
Bette Midler hát về những trải nghiệm tình yêu, thì em...” Ngừng một lúc, anh đưa
tay nâng cằm tôi, buộc tôi nhìn thẳng vào mắt anh.
“Thì em, em hát về... chờ đợi! Sự chờ đợi tình yêu của cô gái.”
Anh nói, lớp sương mờ nơi khóe mắt chẳng rõ khi nào đã tan biến, đôi mắt
lấp lánh sáng ngời.
Chờ đợi?
Tôi bất giác thu mình về sau, dãn rộng khoảng cách với anh.
“Bài này... em không muốn hát trước đám đông xa lạ giữa nơi công cộng,
bởi vì bài hát này... em chỉ muốn hát cho người em thích nghe.” Tôi quay mặt đi,
nói khẽ.
“Người em thích?” Lông mày sư huynh nhướng lên, như cười như không.
Chợt nhận ra câu nói này có thể khiến anh Nhân Kỳ hiểu nhầm, tôi vội vàng
giải thích: “Anh đừng hiểu nhầm, ý em là bài hát này có ý nghĩa rất lớn với em...”