tay liền và bỏ kiểu tay ráp phùng ở vai đã có lúc thịnh hành ở miền Nam
cuối thập niên 1940. Vải dùng để may thường là sa tanh trắng hay đen.
Cùng với áo tay liền, phụ nữ trẻ bỏ loại áo ngực dày để dùng loại gọn nhỏ
kiểu phương Tây có tác dụng nâng ngực hơn. Đến năm 1954-1958, áo dài
không thay đổi kiểu may nhưng đã có hiện tượng đáng chú ý về màu sắc. Có
những phong trào như: Mặc áo dài và quần đồng màu vải trắng (nữ sinh bận
nhiều), rồi mặc áo xanh đậm hay đỏ chói với quần trắng. Một số phụ nữ
sang trọng diện áo dài đôi, như bộ áo cưới, gồm áo dày ở bên trong và lớp
áo the mỏng có hoa, đắt tiền bên ngoài. Đến năm 1958, áo dài ở miền Nam
cải cách lớn như ai cũng biết, đó là kiểu áo dài của bà Trần Lệ Xuân với
kiểu áo không cổ áo, hở cổ và vai, vạt hò được đắp lên tới bờ vai phải.
Trong dịp lễ, bà choàng thêm bên ngoài một khăn choàng mỏng và thật dài.
Chiếc áo này giúp phụ nữ giảm bớt bức bối ở vai và cổ, thể hiện được nét
tròn đầy của hai bờ vai. Sau đó, áo dài tiếp tục được thay đổi: Kiểu hở cổ thì
cải tiến ở cổ áo như cổ hở một phần vai hay nguyên vai, cổ hở một phần
ngực hay phía trên lồng ngực và từ vai xuống trọn ức, dành cho các cô ngực
nở. Còn có các cải tiến khác về cổ như cổ trái tim, cổ tròn không bâu.
Ngoài ra có kiểu cải tiến tay ráp. Các kiểu áo trên có tay ráp trên cùi tay
hay ở vai. Vạt hò được để ở nách hay trên vai. Tay có thể gài nút bóp bình
thường hay mở rộng, có thể được viền kiểu hay thu ngắn lên hai phần ba
cánh tay.
Màu sắc và hoa áo thay đổi tùy người và lứa tuổi mặc. Xuất hiện phụ nữ
mặc áo dài thêu hoa kim tuyến, hoặc họa sĩ vẽ trên áo dài. Công vẽ áo dài là
800 đến 2.000 đồng mỗi áo đầu thập niên 1960.
Trong đợt đấu xảo tại Singapore năm 1959, áo dài nhận được rất nhiều lời
ngợi khen và đến giai đoạn này gần như đã trở thành quốc phục của phụ nữ.
Tuy nhiên, trang phục này cũng dần bộc lộ những bất tiện. Trong tạp chí
Bách Khoa năm 1959, ông Đoàn Thêm chỉ rõ trong bài Y phục và thời
trang, xin lược lại mấy ý như sau:
– Áo dài còn có thể đẹp thêm. Ví dụ như vì sao lại đi bắt chước Hồng
Kông hay Đài Bắc để cổ áo cứng ngắc và mỗi ngày một cao lên, từ 1955 cao