SƠNNAM
ẤN TƯỢNG
300 NĂM
bốn đời mà thôi: cao, tằng, tổ, khảo, hiểu là cha, ông nội,
ông cố, ông sơ của gia chủ đang còn sống. Nếu gia chủ
mất, thì đôn lên cấp bực, ông cao cũ bị hủy bỏ, ông tằng
lên ông cao. Nếu thờ quá nhiều đời, chẳng lẽ quanh năm
cứ làm đám giỗ, nào ông nội, bà nội, thêm ông ngoại,
bà ngoại, ông cố bà cố, chẳng ai đủ tiền đủ thời giờ đến
tham dự. Khi cưới gả, mặc nhiên chấp nhận người cùng
một ông sơ và cùng một họ có thể cưới nhau mà không
mắc tội loạn luân. Ở Bắc, ở Trung, lập nhà thờ Họ để
nhắc nhở con cháu về sau. Ở trong Nam, trong gia đình
cố cựu, bày lệ cúng “việc lề” tức là làm công việc (làm
nghi thức) nhắc nhở tục lệ ông cha ngày xưa, để nhận
ra dòng họ: thí dụ như cúng vào ngày mùng 7 tháng 10
hằng năm một con cá lóc nấu cháo ám, hoặc nướng trui,
thêm đĩa đọt rau lang luộc và mắm nêm. Phải chăng đó
là lệ cúng đất, cúng người Chăm từ miền Trung đưa
vào? Mỗi họ cúng vào một ngày riêng, thay đổi món
cúng chút ít (thí dụ ba đĩa đọt lang thay vì một đĩa), để
nhận ra dòng họ khi bị thất lạc vì chiến tranh, hoặc phải
thay tên đổi họ, tránh nạn tru di tam tộc. Như một mật
hiệu riêng của dòng họ, nhập chung với việc cúng đất,
tùy thói quen, tùy hoàn cảnh, cho gọn. Khi đã ít nhiều
đô thị hóa, lần hồi thấy không cần thiết nữa.
Trịnh Hoài Đức ca ngợi lòng hiếu khách của người
đất Gia Định xưa, lạ hay quen đến nhà cũng được mời
cơm nước đầy đủ, người ăn mày không bị khinh khi.
Đây là tập quán chung của những người khẩn hoang,