“Anh chưa bao giờ kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra ở Mỹ sau
chiến tranh,” Harry nói sau một thoáng. “Đó có phải là lí do anh bỏ đi
không?”
“Một phần nào.” Sự cộc lốc trong câu trả lời của tôi ám chỉ rằng
tôi không muốn nhắc tới nó, và Harry hiểu ngay.
“Còn về Benny?” Cậu ta hỏi.
“Tất cả những gì tôi biết về hắn là hắn có liên quan đến LDP -
một gã chạy việc vặt, nhưng là những việc vặt quan trọng. Và có vẻ
như hắn còn làm gián điệp hai mang cho CIA.”
Từ gián điệp hai mang khiến tôi thấy lợm giọng. Nó vẫn là một
trong những cái tên gọi bẩn thỉu nhất mà tôi biết.
Trong sáu năm, các chiến dịch của SOG ở Lào, Campuchia, và
miền Bắc Việt Nam đều bị phá hoại bởi một tên gián điệp hai mang.
Hết lần này đến lần khác, một đội quân vừa được gài vào thành công
đã bị các đơn vị tuần tra của miền Bắc Việt Nam tóm gọn trong vòng
vài phút. Một vài chiến dịch là những cái bẫy chết người, với những
trung đội SOG bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng những chiến dịch khác
lại thành công, có nghĩa là sự tiếp cận thông tin của tên gián điệp hai
mang đó bị giới hạn. Nếu một điều tra viên có thể so sánh ngày tháng
và sự tiếp cận thông tin của mọi người, chúng tôi đã có thể nhanh
chóng thu hẹp danh sách những kẻ tình nghi.
Nhưng MACV - Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam -
từ chối điều tra vì sự nhạy cảm của “quan hệ hợp tác” - nghĩa là, họ sợ
xúc phạm chính phủ miền Nam Việt Nam nếu gợi ý rằng một công
dân miền Nam Việt Nam đang làm việc cho MACV có thể không
đáng tin cậy. Tệ hơn, SOG được lệnh tiếp tục chia sẻ dữ liệu với
ARVN. Chúng tôi đã cố gắng lách lệnh bằng cách cung cấp những tọa
độ cài cắm giả cho các đối tác người Việt, nhưng MACV phát hiện ra
và chúng tôi đã phải trả giá đắt.
Năm 1972, một hạ sĩ ARVN phản bội đã bị phát hiện, nhưng đặc
vụ cấp thấp đơn độc này không thể là nguồn phá hoại duy nhất trong