tiền ấy nữa”. Anh nhét chiếc phong bì đầy ắp tiền vào túi quần. Anh ngoái
nhìn lần cuối toàn bộ căn phòng, rồi thận trọng mở cửa, bước xuống thang
gác. Đến góc đường, chàng chạy nhảy lên xe buýt, quay về trung tâm thành
phố.
Malcolm hiểu rằng nhiệm vụ đầu tiên của anh lúc này là phải lẩn tránh. Giờ
đây, anh bị ít nhất hai nhóm săn lùng: nhân viên của Cục và bọn hung thủ
tiến công vào trụ sở Hội, cả hai đều biết tường tận mặt mũi anh. Vì thế,
trước hết, phải cải trang cái đã.
Trước cửa hiệu cắt tóc có treo một tấm biển khá to: “Ở đây, quý vị không
phải chờ đợi”. Lời quảng cáo đó thật lạc lõng đối với chàng trai; chẳng hợp
với tình cảnh anh chút nào! Malcolm đứng quay mặt vào tường, cởi vét-
tông ra. Trước lúc ngồi vào ghế, anh kín đáo dúi khẩu súng ngắn vào chiếc
áo đã cuộn tròn. Và trong suốt thời gian cắt tóc, chàng trai không rời mắt
một giây nào khỏi chiếc vét-tông ấy.
- Cắt kiểu nào đây, anh bạn trẻ? Ông thợ cạo, tóc hoa râm, cất tiếng hỏi anh
vẫn xấp xấp chiếc kéo giòn giã.
Malcolm không mảy may do dự. Anh hiểu rất rõ một kiểu để tóc mới có thể
làm thay hình đổi dạng người ta khá nhiều.
- Ông húi ngắn giúp đi. Nhưng đừng để đến mức nom như một anh tân binh
vừa nhập trại. Nghĩa là tóc để nằm, chứ đừng dựng đứng lên như lông
nhím.
- Chà, kiểu tóc này sẽ làm anh trông lạ mắt lắm đấy nhé, - ông thợ cạo lấy
làm lạ, nhưng vẫn nhét cái phích cắm của chiếc tông-đơ vào ổ điện.
- Vâng, tôi biết rồi.
- Này, anh bạn trẻ, anh có khoái bóng chày không? Tôi thì cực kỳ hâm mộ.
Tôi vừa đọc một bài nói về đội “Oriols” trong tờ Washington post hôm nay.
Họ tả những đợt tập huấn mùa xuân rất thú vị, với cả cái chuyện chàng trai
ấy đang tính tẩu thoát ra sao nữa…
Malcolm nhìn vào gương: một chàng trai ngổ ngược mà anh nhìn thấy lần
chót cách đây năm năm, đang trố mắt nhìn ra.