khá dày. Trên giấy cũng ghi rõ họ tên, quê quán và nhân dạng. Ngoài ra,
còn dán hai tấm ảnh – một chụp thẳng, một chụp nghiêng mà Malcolm đều
rất thích.
… Suốt hai mươi phút đồng hồ, chàng trai vừa hắt hơi, vừa thở phì phò,
vừa càu nhàu, rồi nào đẩy, nào lôi, nào lắc cánh cửa, thậm chí có lúc anh
còn đập mạnh tấm giấy chứng nhận vào ổ khoá nữa. Nhưng, rốt cục, đâu
vẫn hoàn đấy. Cuối cùng, mép cái bao nhựa bong ra, mảnh giấy chứng nhận
bên trong rơi xuống đất, rồi lọt qua khe cửa và bay vèo vào bên trong
phòng.
Malcolm nổi cáu, vì thua cuộc. Anh đứng phắt dậy cho đỡ tê chân. “Nếu
không ai ngăn mình suốt từ nãy đến giờ - chàng trai nghĩ bụng, - thì dẫu
mình có phá cửa, chắc cũng chẳng có ai để ý”. Anh co chân, ráng hết sức
bình sinh, đạp thật mạnh vào cái cửa, trút lên đó toàn bộ nỗi phẫn uất, nỗi
sợ hãi và sự bực dọc bị nén lại trong người suốt từ sáng đến giờ. Cả khoá,
lẫn cửa của toà nhà ọp ẹp này quả chẳng mấy kiên cố. Chủ nhân cho khách
thuê với giá rẻ mạt, nên cũng trang bị cho các căn hộ ở đây những thứ hoàn
toàn tương xứng với giá tiền thuê. Cách cửa căn phòng 413 mở toang ngay.
Lò xo đóng mở tự động bị nén mạnh, hất ngược cánh cửa trở lại. Malcolm
vội đưa tay ra giữ, rồi lẻn vào. Xong, lại khép nhẹ lại như cũ. Anh nhặt tấm
giấy chứng nhận lên, đi thẳng vào trong và tiến ngay lại phía cái giường đôi
thấp tè…
… Vì bọn chúng có đủ thời giờ, nên chẳng cần phải đóng kịch và giở các
phương pháp “êm thấm” ra để thi hành với Heidegger, mặc dù, những
phương pháp đó sẽ đỡ gây lôi thôi cho bọn chúng. Giá Malcolm chịu khó
vén cao vạt áo pyjama lên, hẳn anh sẽ nhìn thấy những vết thâm tím còn để
lại trên da nạn nhân, do những cú đấm phũ phàng vào mạng mỡ và bụng
dưới, nhất là nếu nạn nhân dễ bị xuất huyết dưới da. Mặt mũi Heidegger đã
tím rịm. Trong phòng lúc này nồng nặc mùi xác chết bắt đầu thối rữa.