Theologumenis Vedanticorum của Sancara và Miscellaneous essays của
Colebrooke). Chết là cái phút giải thoát kia của bản tính riêng biệt của cá
nhân tính, cái bản tính chẳng phải làm cái nhân thâm hậu nhất cho bản thể
ta, mà đúng ra phải coi như là một sự lạc lõng của bản thể; tự do chân
chính, khởi thủy, lại tái hiện vào cái lúc mà, theo chiều hướng đã vạch, có
thể được coi như một sự phục hồi trọn vẹn (restitutuo in integrum). Vẻ bình
thản hiện trên nét mặt của phần lớn những người chết hình như xuất phát từ
đó. Nói chung ra, cái chết của mọi người thiện đều thanh thản nhẹ nhàng;
như tự ý chết, sẵn sàng chết, vui vẻ chết, đó là cái đặc năng của người nhẫn
nhục, của người cởi bỏ cái ý chí sống và từ khước nó. Vì chỉ có kẻ này mới
muốn chết thật, chứ không phải chỉ chết bề ngoài, do đó họ không còn khao
khát, không còn đòi hỏi sự tồn tại của con người mình. Cái kiếp sống mà
chúng ta biết, họ vui vẻ từ bỏ: cái mà họ thu hoạch được thay cho đời sống
đối với chúng ta chả là gì cả, vì kiếp sống của chúng ta, so với kiếp sống kia
chả là gì cả. Phật giáo mệnh danh kiếp sống đó là niết bàn (nirvana) nghĩa
là tịch diệt
[49]
.