đánh gần, đó là tiếng báo hiệu máy bay địch đang bổ nhào và ngay sau đó là lời cô phát
thanh viên: “Mời tất cả cán bộ, bần nông, trung nông chú ý lắng nghe. Đây là hiệu lệnh
báo hiệu phòng không thông dụng trên toàn thế giới. Lúc nào nghe được những âm
thanh này, mọi người lập tức ngừng ngay công việc để nấp vào hầm. Nếu tìm không ra
hầm thì hai tay ôm lấy đầu và nằm xuống”...
Trong lúc cấp thiết, không ngờ tiếng hú quen thuộc ngày xưa đột ngột thoát ra từ
miệng tôi. Để cho tiếng hú báo động của mình vang xa, tôi bất chấp cái lạnh trèo lên
cây hạnh. Tuyết trên cành rụng xuống đất rào rào, để lộ những cành cây màu đỏ bầm,
trơn tuột giống như loài san hô dưới biển trong truyền thuyết. Tôi tiếp tục trèo lên đến
đỉnh ngọn cây hạnh, tất cả quang cảnh của trại lợn và làng Tây Môn hiện ra trước mắt
tôi. Những làn khói xanh mờ mờ bay lên từ phía xa, rừng cây hạnh chung quanh tôi bị
tuyết phủ trông giống như những chiếc bánh bao to sụ. Rất nhiều người từ những mái
nhà đầy tuyết như sẵn sàng đổ ụp xuống bất cứ lúc nào đang chạy ra. Tuyết trắng,
người đen. Tuyết dày đến đầu gối, người đi sao mà khó khăn, lúc la lúc lắc, ngắn ngủn.
Họ đều bị tiếng hú của tôi làm cho sợ hãi. Kim Long và Giải Phóng cùng vài người nữa
từ năm gian nhà ấm áp xuất hiện sớm nhất. Trước tiên là họ ngước mắt lên trời xem
xét. À, họ đang tìm máy bay oanh tạc của bọn đế quốc phản động đấy, rồi đột nhiên tất
cả đều úp mặt xuống tuyết, hai tay ôm đầu. Một bầy quạ kêu quang quác bay trên đầu
họ. Bọn quạ này làm tổ trong rừng dương liễu phía đông con sông đào. Tuyết che kín
đất, việc kiếm ăn khó khăn nên chúng thường đến trại lợn để tranh ăn với chúng tôi.
Cuối cùng họ cũng đã đứng dậy, ngẩng đầu nhìn lên trời một lần nữa, cúi người nhìn
mặt đất phủ tuyết dày và phát hiện ra địa điểm phát ra tiếng hú kinh hồn này.
Bây giờ tôi sẽ nói về ông đây, Lam Giải Phóng. Ông cầm trên tay chiếc roi trúc dài
ngoằng mà những người đánh xe ngựa thường sử dụng chạy dẫn đầu. Con đường nhỏ
do những người đưa thức ăn đi lại nhiều nên tuyết vón lại thành từng cục trơn nhẫy
khiến chân ông xiêu vẹo, vừa chạy vừa ngã. Mặt trời chiếu sáng rực trên tuyết, đẹp lạ
lùng. Những con quạ bay trên cao cũng như được dát nhũ vàng, gương mặt một bên
xanh của ông cũng rực rỡ. Người làng Tây Môn, trừ Mạc Ngôn thường lui tới, còn lại
chưa ai để ý gì đến ông. Ngay cả một con lợn như tôi cũng chẳng xem ông - một đội
trưởng nuôi lợn - ra gì cả. Lúc này nhìn thấy ông cầm roi xông tới, tôi mới kinh ngạc và
nhận ra rằng, ông đã là một thanh niên. Sau khi sự việc diễn ra, nhẩm tính lại, té ra ông
đã hai mươi hai tuổi.
Tôi ôm lấy cành cây, ngẩng mặt đón ánh mặt trời, ngoác mồm tiếp tục hú. Những
người tụ tập dưới gốc cây hạnh biểu hiện nhiều cách nghĩ khác nhau về tôi. Lão già họ
Vương thì lẩm bẩm một câu mà tôi đã nghe đâu đó trong sách vở: