Có lẽ vì nghèo quá, mỗi người chỉ có một bộ quần áo dài để mặc khi đi giỗ
chạp. Gọi là quần áo cho vui, chứ thực ra toàn loại quần áo cắt may từ vải
buồm rách, hay vải diềm bâu dệt thủ công mua ở chợ, vá chằng, vá đụp.
Nhiều người chỉ độc mỗi quần đùi. Mùa đông gió rét nhà nghèo lấy những
tay lưới trũ cũ rách thay chăn chống rét.
Ngư dân ra đến bờ sóng là cởi quần đùi ném vào thuyền cùng nhau
“cất nôốc”
, đưa thuyền ra biển. Thuyền ở trên bãi cát, muốn ra biển phải
có cái đòn gỗ thật dài gọi là néo, dùng cái dây nài buộc vào thuyền, mỗi
bên ba, bốn người “trần như nhộng”, ghé vai khiêng, vần xoay cho đến khi
thuyền xuống bợc sóng
, gọi là “cất nôốc”. Khi hàng người cất nôốc trần
như nhộng ấy rướn lên đi theo nhịp hô “hai ba... này”, thì một hàng “thằng
nhỏ” phía dưới cũng đung đưa theo nhịp. Buồn cười lắm.
Quê tôi gọi bố bằng bọ (một biến âm của từ bố), từ đó đàn ông có vợ
đều gọi là các bọ. Cả ngày đi biển các bọ đều “trần như nhộng” như rứa cả.
Vào đến bờ mới mặc quần, vì lúc đó có các cô các bà quang gánh ra bờ
gánh cá. Có nhiều ông già (người dân biển 50, 56 tuổi đã gọi là già) cứ vắt
cái quần đùi trên vai với “thằng nhỏ” lủng lẳng đi lên nhà. Không hổ ngươi
(xấu hổ), ngượng ngập gì. Cũng chẳng ai nhìn ngó, cười cợt gì.
Làng có ông Khê đi biển về lúc nào cũng “trần như nhộng”, vắt quần
đùi trên vai, vừa đi lên nhà vừa đằng hắng và huýt sáo. Ông Khê hắt xì hơi
vang to đến cuối làng cũng nghe. Mỗi lần ông hắt xì hơi chục cái, ba ngày
sau gió mùa Đông Bắc về, biển động. Trăm lần như một. Bọn trẻ con chúng
tôi chạy theo ông trêu đùa, lấy que đánh khăng cời vào “thằng nhỏ” của
ông, ông cũng chẳng mắng mỏ gì, chỉ cười khanh khách “cha mày”, “cha
mày”. Chị Duyên, một phụ nữ thịt da màu mỡ nghịch ngợm nhất làng, thủ
sẵn đôi đũa cái nhằm khi ông Khê đi biển về, chị đi ngang qua, giơ đũa gắp
gắp cái “của quý” của ông. Ông kêu to: “Coi chừng hắn thức dậy!... Hắn
thức dậy!”. Và “hắn” thức dậy thật. Con nít reo ầm lên, đàn bà con gái đỏ
mặt tía tai vừa cười vừa chạy.