đang bò về phía bến”. Số quân mới đến được tung vào đoạn phòng thủ nằm
bắt chéo ngay phía bắc nhà máy Barrikady.
Tướng Yeremenko cũng qua sông đêm đó để trực tiếp thị sát tình hình.
Nặng nề tì cây gậy chống sau vết thương năm ngoái, ông leo lên bờ sông
đến cái boong ke chật chội của Sở Chỉ huy Tập đoàn quân số 62. Các hố
bom đạn và những khúc gỗ nát tươm của các căn hầm bị trúng bom trông
chẳng còn ra hình thù gì. Đồ vật và những người còn sống thì bê bết tro bụi.
Tướng Zholudev ứa nước mắt khi tính lại thiệt hại của sư đoàn ông trong
nhà máy máy kéo. Tuy thế, sau khi Yeremenko rời đi thì hôm sau Bộ Tư
lệnh Phương diện quân cảnh báo Chuikov rằng đạn dược sẽ còn bị cắt giảm
thêm nữa.
* * *
Sau khi quân Đức chia cắt các lực lượng Soviet ở phía bắc nhà máy máy
kéo Stalingrad vào đêm 15 tháng 10, Chuikov nhận thông báo của họ, tin vui
thì ít mà chỉ “nhiều yêu cầu” từ sở chỉ huy của Sư đoàn súng trường số 112
và Lữ đoàn đặc biệt số 115 xin phép rút qua sông Volga. Cả hai sở chỉ huy
rõ ràng đã cung cấp “thông tin sai”, nói rằng các trung đoàn của họ đã bị đẩy
bật ra ngoài. Yêu cầu rút quân này tương đương với tội phản quốc theo lệnh
của Stalin, đã bị từ chối. Giữa lúc ngưng chiến mấy ngày sau, Chuikov cử
Đại tá Dmitrii Kamynin đến khu vực biệt lập đó để kiểm tra tình hình các
trung đoàn. Ông nhận thấy Sư đoàn súng trường số 112 còn 589 người,
trong khi Lữ đoàn đặc biệt số 115 còn tới 890 người. Chính ủy cao cấp, theo
báo cáo, “đáng lẽ tổ chức phòng ngự tích cực... thì lại không thò đầu khỏi
boong ke, cứ rối rít ép chỉ huy phải rút qua sông Volga”. Vì “hành động
phản bội công cuộc phòng thủ Stalingrad” và “sự hèn nhát cùng cực”, các sĩ
quan cao cấp và các Chính ủy sau đó đã bị tòa án binh hội đồng quân sự Tập
đoàn quân số 62 xét xử. Số phận của họ ra sao không thấy ghi, nhưng khó
mà mong được Chuikov nhẹ tay.