tề ra mắt ỏ Hội nghị hòa bình năm 1919, Wilson và các nhà lãnh đạo các
quốc gia đồng minh khác đến đấy bàn bạc về Hiệp ước Varsailless và Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Ở Paris thời kỳ ấy, người Việt Nam 28 tuổi ấy, đôi
mắt đặc biệt lanh lợi, có vẻ vụng về trong chiếc áo đuôi tôm với cra-vát
trắng bắt chước cách ăn mặc khác lạ của một người hào hoa phong nhã
châu Âu. Ông mang tới một bản điều trần những tố cáo của người Việt
Nam về chế độ thực dân Pháp. Ông bắt chước Wilson chia làm 8 điểm tạo
cho người Việt Nam cơ may bù lại những thiệt thòi họ phải chịu. Ông
không đòi độc lập nhưng tự trị trong lòng thuộc địa Pháp. Không một thành
viên nào trong phái đoàn Mỹ hay một phái đoàn khác nhận tiếp ông. Ông
hiểu việc tự quyết định của Wilson chỉ áp dụng cho người Séc, Ba Lan và
những dân tộc da trắng khác ở Đông Âu dưới sự chiếm đóng của Đức và
Áo – Hung nhưng không phải cho người da nâu, da vàng châu Á, càng
không phải cho người da đen ở châu Phi. Điểm thứ Năm của Wilson về
“những đồi hỏi đối với thực dân” chỉ đơn giản giải quyết việc phân chia
giữa những người chiến thắng các thuộc địa của Đức ở châu Phi và châu Á.
Hai mươi sáu năm sau, ngày 15 tháng Tám năm 1945, ngày Nhật Hoàng
Hirohito tuyên bố đầu hàng, Hồ Chí Minh đề nghị Truman thực hiện đầy đủ
những cam kết thời chiến và áp dụng những tuyên bố của tổng thống tiền
nhiệm Franklin Roosevelt đã mất. Đại diện Việt Minh ở Côn Minh, Trung
Quốc đề nghị Hoa Kỳ “những người quán quân của nền dân chủ” biến nước
Việt Nam thành một nước bảo hộ của Mỹ “với thể chế như Philippines
trong một thời hạn không xác định” trước khi độc lập hoàn toàn. Hai tuần
lễ sau, ngày 2 tháng Chín năm 1945, trong khi phái đoàn Nhật Bản cúi
xuống chiếc bàn trải thảm xanh trên boong chiến hạm Missouri để ký các
văn kiện đầu hàng không điều kiên, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập
và công bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Ông phát biểu
trước đám đông 50 vạn người tập họp trên quảng trường Ba Đình của Hà
Nội. Ông bắt đầu bằng một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập của mười ba
thuộc địa Mỹ do Jefferson công bố ngày 4 tháng Bảy năm 1776: “Mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng ..”. Trong lúc ông nói, trên bầu trời
xuất hiện máy bay tiêm kích P.38. Viên phi công tò mò bổ nhào trên quảng