Số quân của các phân đội và binh đội bộ binh có giảm đi nhưng hỏa lực
lại tăng thêm nhiều. Ví dụ, thời gian diễn ra trận đánh ở Xta-lin-grất, trong
một sư đoàn bộ binh có thêm 150 khẩu trung liên, số đại bác 45 mi-li-mét
cũng tăng thêm 18 khẩu. Số súng tiểu liên cũng tăng thêm nhiều. Sau đó
không bao lâu, bộ đội đã chuyển sang sử dụng súng tiểu liên kiểu Xu-đa-ép
và súng đại liên kiểu Gô-riu-nốp, thích hợp hơn với yêu cầu của chiến đấu
hiện đại.
Số lượng pháo trước kia có 21 kiểu, nay giảm quãng còn 8 kiểu. Như
vậy ngành công nghiệp quốc phòng dễ dàng thực hiện các đơn đặt hàng của
chiến trường, nhờ sử dụng được những phôi đã tiêu chuẩn hóa. Sản lượng
những loại đạn lõm và cỡ nhỏ có sức xuyên thủng vỏ thép dày tăng lên gấp
bội. Nạn khan hiếm đạn pháo cao xạ đã chấm dứt.
Từ những lữ đoàn M-30 đã thành lập những sư đoàn pháo phản lực
hạng nặng; một sư đoàn pháo phản lực gồm 864 dàn bắn một loạt có thể trút
vào đầu địch 3.840 quả đạn, nặng tất cả 320 tấn. Các binh đoàn pháo binh
lớn, có hỏa lực tập trung cao độ đã ra đời để thay thế cho rất nhiều những
đơn vị Pháo binh nhỏ thuộc Lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao
trước đây hợp thành những trung đoàn và tiểu đoàn độc lập. Những trung
đoàn pháo tự hành được trang bị đại bác 76 mi-li-mét và 122 mi-li-mét đã
xuất hiện.
Mỗi một phương diện quân được biên chế một lữ đoàn cối và một lữ
đoàn pháo chống tăng, còn tập đoàn quân bộ đội hợp thành thì được biên
chế một lực lượng pháo binh tập đoàn quân gồm có: một trung đoàn pháo
cao xạ, một trung đoàn cối, một trung đoàn pháo chống tăng và một trung
đoàn đại bác.
Bây giờ ở chiến trường khó mà gặp những chiếc xe tăng đi lẻ. Xe tăng
đã được sử dụng hàng phân đội, rồi hàng binh đội và về sau đến hàng binh
đoàn. Các trung đoàn đột phá với những xe tăng hạng nặng đã được thành
lập và sử dụng thành công. Cuối năm 1942, trong quân đội tác chiến đã có