Trên mặt trận Xô - Đức lúc bấy giờ, quân địch có 198 sư đoàn và 6 lữ
đoàn Đức, 3 tập đoàn không quân Đức cùng 38 sư đoàn và 18 lữ đoàn của
các nước liên minh với Đức. Những đạo quân đó bao gồm tới 4.9 triệu
người, được trang bị trên 54 nghìn pháo và cối, 5.400 xe tăng và pháo tiến
công, 3.000 máy bay. Bộ đội chiến đấu của Hồng quân bao gồm 6,1 triệu
người, gần 89 nghìn pháo và cối, trên 2.000 dàn pháo phản lực, 4.900 xe
tăng và pháo tự hành. 8.500 máy bay chiến đấu.
Dĩ nhiên, điều đáng chú ý là chúng ta có ít xe tăng hơn địch, dù chỉ là
tạm thời. Điều đó trước hết là do những tổn thất không nhỏ của quân đội
Liên Xô trong các chiến dịch tiến công to lớn năm 1943. Nhưng, năm lập
đoàn quân xe tăng của chúng ta (và mùa đông năm 1944 lạt thêm tập đoàn
quân thứ sáu) cũng có thể tập trung những lực lượng xe tăng hùng hậu trên
hướng tiến công chính. Lực lượng đó đã đè bẹp kẻ thù bằng hỏa lực và xích
sắt, mở đường cho bộ binh Liên Xô và phá vỡ tuyến phòng ngự của bọn
phát-xít. Nhưng chính trong khi làm như vậy các đơn vị nói trên là mũi
nhọn tiên phong cũng bị thiệt hại đáng kể.
Ngoài ra, không nên đánh giá quá thấp tiềm lực kinh tế của nước Đức
Hít-le. Bằng cách bóc lột lao động của hàng trăm nghìn công nhân nước
ngoài rơi vào ách nô lệ phát-xít, bắt buộc các xí nghiệp quốc phòng của một
số nước bị chiếm đóng phải phục vụ các nhu cầu của mặt trận, nước Đức
phát-xít đã có thể tổ chức được nền sản xuất quân sự.
Vì vậy vào khoảng giữa năm 1943 - 1944, việc chiến đấu với các binh
đoàn xe tăng Đức hoàn toàn không phải là việc đơn giản. Và bộ đội Liên
Xô mỗi khi phải dừng lại phòng ngự thì đều nhất thiết phải bố trí trận địa
phòng ngự sâu, chống cả máy bay và xe tăng, với những công sự kiên cố.
Ở cánh Nam mặt trận Xô-đức, vào đầu năm 1944, bọn Hít-le có một
trong những cánh quân chiến lược lớn nhất của chúng. Chọi với bốn
phương diện quân U-crai-na của Liên Xô, trên khu vực từ sông Pri-pi-át đến
bờ Biển Đen, bên địch có: cụm tập đoàn quân “Nam” của thống chế Man-