thổ. Ngũ hành là năm nguyên tố của vũ trụ; về điểm này, một số học giả
phương Tây cho rằng có thể Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng của Zoroastre ở
Ba Tư.
Ngũ hành tương sinh: mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh
thủy, thủy sinh mộc; mà cũng tương khắc: mộc khắc thổ, thổ khắc thủy,
thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.
Cái gì người ta cũng ghép ngũ hành vào: bốn phương thì bắc là thủy, nam
là hỏa, đông là mộc, tây là kim, trung ương là thổ; bốn mùa thì xuân là
mộc, hạ là hỏa, thu là kim, đông là thủy, khoảng xen vào giữa bốn mùa, tức
tháng 3, 6, 9, 12 là thổ.
Cơ thể con người có ngũ tạng thì mỗi tạng cũng thuộc về một hành, chẳng
hạn phế là kim, can là mộc, tâm là hỏa... Ngũ âm, ngũ sắc cũng có ngũ
hành.
Người ta áp dụng cả ngũ hành vào các triều đại nữa, ví dụ triều đại Tần
thuộc thủy, màu đen, thì màu đen là chính, sắc phục nên dùng màu đó; triều
đại đó sẽ tới lúc suy và triều kế nó Hán là thời của thổ (vì thổ khắc thủy),
và màu chính sẽ là màu vàng, màu của thổ, v.v.. Thuyết đó huyền bí quá,
mà các ông vua cũng không ưa. Nhưng các khoa bói, tử vi, địa lí (phong
thủy), y học, dược học... đời sau đều dùng âm dương và ngũ hành. Đó cũng
là một nét đặc biệt của khoa học Trung Hoa. Thuyết âm dương và ngũ hành
có vẻ duy lí rồi và làm giảm bớt uy quyền của quỉ thần, ít nhất là trong giới
sĩ, có học.
Dịch học phái
Đặc biệt nhất, kì dị nhất, làm cho khắp thế giới ngạc nhiên là Kinh Dịch,
chỉ dùng hai vạch: liền - để biểu tượng dương, và đứt - - để biểu tượng âm,
rồi chồng hai vạch đó lên nhau hai lần được tám quẻ đơn (bát quái): càn (là
trời), khôn (là đất), li (lửa), khảm (mạc), cấn (núi), đoái (chằm), tốn (gió),
chấn (sấm); sau cùng lấy tám quẻ đơn đó chồng lên nhau, được 64 quẻ kép.
Mỗi quẻ kép này có một tên riêng và một ý nghĩa riêng, mỗi quẻ gồm sáu
nét dương hoặc âm, gọi là sáu hào, mỗi hào có một ý nghĩa riêng.