SỬ TRUNG QUỐC - Trang 113

nghĩa của mỗi quẻ, rồi sau, con ông là Chu Công viết hào từ để giảng ý
nghĩa của mỗi hào. Có thể cuối đời Xuân Thu, Khổng Tử nghiên cứu thêm
ý nghĩa của Kinh Dịch, nhưng hầu hết các học giả đời sau đều nhận rằng có
một nhóm người đời Chiến Quốc và đầu đời Hán - gọi là phái Dịch học -
viết Thập dực, cũng gọi là Thập truyện, để giải thích thêm phần kinh tức
phần quái từ và hào từ, lần lần biến đổi một bộ sách vốn đùng để bói thành
một cuốn dung hòa được đạo Khổng, đạo Lão, và thuyết âm dương, có thể
coi là một tổng hợp triết lí Trung Hoa thời Tiên Tần.
Dịch luận về sự phát triển của vạn vật trong vũ trụ; cho rằng hất thảy đều
do sự giao cảm của càn khôn mà ra. Vạn vật luôn luôn biến hóa mà vẫn có
sự bất biến vì theo một trật tự nhất định (trời cao, đất thấp, sang hèn đã
định), và theo một luật tuần hoàn, thịnh cực rồi suy, suy cực rồi lại thịnh.
Về nhân sinh quan, Dịch chú trọng vào sự “tự cường bất tức”, vào đức
trung chính, biết tùy thời của đạo Khổng; và đức khiêm, nhu của đạo Lão.
Hai quẻ chính: càn là đức tự cường, mà khôn là đức khiêm nhu.
Chỉ có 64 quẻ kép gồm 64 x 6 = 384 hào mà Dịch bàn về mọi vấn đề nhân
sinh, từ tề gia, trị quốc, tu thân, ăn uống, dạy trẻ, tới cách xử thế thời bình,
thời loạn, khi đi ở nhờ nước ngoài, khi xuất quân, khi kiện cáo, khi lập
đảng, khi làm cách mạng, khi cách mạng thành công, khi diệt kẻ tiểu nhân,
lúc giàu, lúc nghèo, lúc đắc chí, lúc hoạn nạn...; tùy mỗi thời, mỗi hoàn
cảnh Dịch đều chỉ cho ta cách đối phó ra sao để giữ được tư cách người
quân tử trung chính, cương mà vẫn nhu. Có thể nói tác phẩm đó là sự minh
triết của dân tộc Trung Hoa, và từ đời Hán đến đầu thế kỉ chúng ta, trên
2.000 năm, nó được coi là một bộ kinh ngang hàng với các kinh của
Khổng, Lão. Một cuốn sách vốn dùng để bói mà thành một cuốn kinh, hiện
tượng đó độc nhất trong Lịch sử triết học của nhân loại.
*
Tôi đã dành tất gần 140 trang cho sử đời Tiên Tần mà riêng triết học đã
chiếm mất trên 38 trang, vì từ đó tới nay không thời nào nó thịnh, rực rỡ và
nhiều vẻ như thời đó nữa. Nó lâ cống hiến quí nhất của Trung Hoa cho
nhân loại. Không một triết học nào khác vừa nhân bản vừa thực tế như nó.
Thế kỉ XVIII rất nhiều học giả phương Tây như Leibniz, Wolff, Diderot,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.