rừng để săn. Cùng như châu Âu thời Trung cổ, giới quí tộc Trung Hoa thời
thượng cổ rất thích săn bắn: di tích của lối sống thời chưa có lối sống nông
nghiệp. Ngay thời Võ đế, khi Tư Mã Tương Như sống chung với nàng Trác
Văn Quân, được bố vợ cho một trăm nông nô và một triệu đồng tiền
(Khoảng 72 kí lô vàng[5], theo Y. Herveuet. Un Poète de cour sous les Han,
Sseu-ma Siang-jou - PUF 1964 - Denys Lombard dẫn trong La Chine
impériale, PUF 1967, tr: 24).
Đó là một lí do khiến Vương Mãng đời sau tịch thu đất đai của bọn đại điền
chủ, chia lại cho dân nghèo theo phép tỉnh điền thời Xuân Thu. Trong lịch
sử Trung Hoa, lâu lâu khi có sự chênh lệch quá giữa kẻ giàu và người
nghèo, thì lại có một cuộc cải cách điền địa như vậy; nếu chính quyền
không làm thì nông dân nổi dậy, tự cải cách lấy.
2. Công nghiệp
Thủ công nghiệp đời Hán, về vài ngành, phát triển hơn đời trước nhiều.
Người ta họp nhau thành phường, gồm con cháu trong nhà và một số thợ
học nghề, như phường ép dầu, phường làm nước tương, phường may áo,
đóng quan tài... Nông dân ở thôn quê tự túc được, làm lấy được mọi đồ
thường dùng, sản xuất được mọi thức ăn, chỉ phải ra chợ, thị xã mua muối,
rượu, sắt, đồng.
Xét những di vật khai quật được thì các đồ tiểu công nghệ thời đó như đồ
vàng, đồ ngọc, đồ đồng, đồ gốm, đồ lụa, đồ nhuộm, đồ sơn... đã khá tinh
xảo.
Ở Sơn Đông, ở kinh đô Tràng An, nghề dệt lụa rất phát triển: có xưởng
dùng mấy ngàn thợ. Trong một ngôi mộ khai quật, người ta thấy những đồ
liệm bằng lụa còn giữ được màu cũ.
Nghề gốm bắt đầu sản xuất được những đồ sứ đẹp đẽ.
Tiến bộ nhất là đồ sơn: sự phân công rất tỉ mỉ. Làm một bộ chén dĩa phải
dúng một trăm người thợ, làm một bức bình phong, phải một ngàn người
thợ, mỗi người chuyên một việc nhỏ.
Vào khoảng 100 năm sau T.L, Trung Hoa đã phát minh được thuật làm giấy
bằng giẻ rách, giá rất đắt. Trên một thế kỉ sau, đến Tây Tấn, Tả Tư làm bài