Trong những cuộc thám hiểm và chiếm đóng Tây Vực, người Trung Hoa
biết được các hàng hóa phương Tây vô Trung Quốc do đường nào, và ngoại
nhân mua hàng Trung Quốc rồi chở đi đâu. Nguồn lợi đó khá lớn, triều
đình muốn nắm lấy, bắt các nước lệ thuộc phải nộp cống những sản phẩm
triều đình cần dùng và triều đình cấp lại cho một số sản phẩm nông nghiệp
giá trị tương đương. Chính sách đó không có lợi, vì bọn sứ thần thường
thừa cơ buôn bán riêng với các thổ dân, phần lớn nguồn lợi vào tay họ hết.
Vả lại vua Hán chỉ đòi hỏi những sản phẩm lạ, đẹp để trang hoàng cung
điện, mà các nước ngoài chỉ thích hàng tơ lụa của Trung Hoa, thành thử
triều đình mất một số hàng có lợi cho kinh tế mà thu vào những thứ vô ích
cho kinh tế, thương mãi kiểu đó càng thịnh vượng thì nước càng nghèo đi.
Ở phương Nam, nhiều thị trấn tại bờ biển, như Quảng Châu, thời đó đâu có
những thương nhân ngoại quốc lập những trung tâm buôn bán thinh vượng,
đổi hàng của Ấn Độ, Trung Đông lấy hàng Trung Hoa.
Ở trong nước, thương mãi phát đạt nhờ Võ đế cho đúc nhiều tiền, mở nhiều
đường giao thông. Trên những con đường đó, cứ năm dặm (khoảng ba cây
số) đặt một đoản đình (trạm nhỏ), mười dặm đặt một trường đình (trạm
lớn). Tại mỗi trạm có phu trạm chạy ngựa đem thư tới trạm sau, lại có quán
cho dân đi đường ghé ngủ ban đêm và ăn uống. Toàn quốc có tới trên ba
vạn quán như vậy.
4. Dân số
Về dân số, chúng ta chỉ biết đại khái thôi, vì mỗi sách nói một khác. Từ đời
Tần đã có lệnh nhà nào cũng phải khai số người, nhưng lệnh đó không thể
thi hành ở những nơi xa xôi, không có quân triều đình đóng.
Theo Lombard (sách đã dẫn) thì đầu đời Chiến Quốc, Trung Hoa có độ 20
triệu dân, đời Tần được 40 triệu, đầu kỉ nguyên Tây lịch được 57 triệu.
Nhưng theo Lữ Chấn Vũ, tác giả Giản minh Trung Quốc thông sử (Nhân
dân xuất bản xã, Bắc Kinh, 1955), thì thời Quang Võ (25-57 sau T.L.) thì
chỉ có 21 triệu, mà gần cuối đời Tiền Hán, khoảng đầu kỉ nguyên, có tới 59
triệu (số này hợp với Lombard), như vậy là giảm mất 38 triệu, gần hai phần
ba, chỉ vì nạn Xích Mi nổi loạn ư?