Siêu mà trên tôi đã nhắc tới. Cũng như Tư Mã Thiên, ông nối chí cha (Ban
Bưu) soạn bộ Hán Thư, và cũng như Thiên, vì có kẻ ghen ghét, ông bị hạ
ngục, chết trong đó. Bộ Hán Thư chép nối bộ Sử kí, vì chỉ chuyên chép về
đời Hán, nên tường tế hơn Sử kí. Văn ông nghiêm cẩn, trang nhã, nhưng
không kém vẻ hùng kính.
b. Phú
Phú rất thịnh ở đời Hán cũng như thơ ở đời Đường, từ ở đời Tống. Nó là
thể văn có điệu, có vần, ở giữa thơ và tản văn. Nó phát sinh từ Sở từ; cuối
thời Chiến Quốc đã có Tống Ngọc với các bài Chiêu hồn, Cửu biện; qua
đời Hán thì được phổ cập. Đa số tác giả dùng thể đó để ca tụng cảnh thanh
bình và tài đức của nhà vua, lời bóng bảy du dương mà nội dung rất tầm
thưởng (Vương Sung rất chê).
Nổi danh nhất là Tư Mã Tương Như, tài hoa lãng mạn, quyến rũ được một
quả phụ trẻ, giàu, nàng Trác Văn Quân, viết khá nhiều bài phú mà bài Tử
hư phú được Võ đế thích, rồi phong chàng chức sứ thần, vào Ba Thục (quê
của ông) dụ bọn phụ lão phục tùng nhà Hán.
Các văn nhân khác, như Dương Hùng, cũng truyền được vài bài phú, nhưng
bài có giá trị nhất là bài phú điếu Khuất Nguyên của Giả Nghị, lời rất lâm li
vì tâm sự của ông giống Khuất Nguyên, cũng nhiệt tâm ái quốc cũng bị
gièm pha, phải đày ra Trường Sa.
c. Thơ
Vốn là những bài ca được Nhạc phủ - đời Đường gọi là giáo phường - cơ
quan coi về nhạc, thu thập để phổ vào nhạc.
Có hai loại:
- Loại ảnh hưởng của Sở từ, mỗi câu thường là bảy chữ, gốc của thơ thất
ngôn.
- Loại ảnh hưởng của Kinh Thi, mỗi câu thưởng năm chữ, gốc của thơ ngũ
ngôn.
Tới đời Hậu Hán văn nhân mới dùng hai thể đó, nhưng tác phẩm của họ
không chân thành, cảm động bằng những bài ca trong dân gian như bài Cô