đời Tống, đất còn lại thuộc về Kim.
* Tống mỗi năm nộp cho Kim 200.000 lượng bạc và 300.000 tấm lụa.
Vua Kim dẫn ba đạo quân tiến vào đất Liêu, tới đâu thắng đấy một cách dễ
dàng, trái lại quân Tống do Đồng Quán điều khiển (Tống hết tướng rồi ư?)
Thua Liêu luôn mấy trận, sau đánh Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) cũng
không xong. Quán phải xin Kim giúp sức. Kim hạ được Yên Kinh rồi hạ
luôn mấy kinh đô nữa của Liêu. Vua Liêu mất nước rồi, muốn đầu Tống,
nhưng giữa đường bị Kim bắt được. Liêu vong năm đó là năm 1125 cuối
đời Huy Tôn.
Vậy là chỉ một mình Kim có công diệt Liêu, Kim viện lẽ đó để yêu sách
thêm, bắt Tống mỗi năm phải nộp một triệu quan làm tiền thuế đất Yên
Kinh, rồi mới chịu giao lại đất đó.
Sử gia trách nhà Tống đổi nước Liêu là kẻ hào hảo với mình trên trăm năm
để kết thân với một nước mới hưng vượng, còn nhiều nhuệ khí. Vì vậy để
rước thêm cái hoạ rợ Kim lớn hơn hoạ rợ Liêu nữa.
Hoạ xảy ra ngay tức thì. Tống chưa kịp nộp một triệu quan "thuê đất" thì
Kim đã đem quân vào đánh, hãm Yên Kinh, Huy Tôn thấy nguy, mộ thêm
quân, nhường ngôi cho thái tử, tức vua Khâm Tôn (1126). Dân chúng ở
kinh đô phẫn uất đòi Huy Tôn phải giết Tướng quốc Thái Kinh và Đồng
Quán vì đã làm cho quốc gia bị suy nhược, bại trận, bị xâm lược. Huy Tôn
phải nghe, rồi trốn giặc xuống Giang Nam.
Chiếm Yên Kinh rồi, giặc Kim hãm Biện Kinh. Khâm Tôn muốn bỏ kinh
đô trốn nữa. Lý Cương giữ chức binh bộ thị lang, khóc can, nguyện tử thủ
xã tắc. Khâm Tôn phải ở lại. Lý Cương tận lực chống giữ kinh thành,
nhưng rồi Khâm Tôn nghe lời tể tướng Lý Bang Ngạn, sai sứ cầu hoà.
Người Kim đòi vàng 500 vạn lạng, bạc 5000 vạn lạng, lụa 100 vạn tấm,
ngựa bò 1 vạn con, và cắt đất Hà Bắc ngày nay. Lại bắt vua Tống phải tôn
vua Kim làm bác, gởi thân vương, tể tướng làm tin mới chịu hoà. Khâm
Tôn phải chấp nhận hết, nhưng chỉ thâu góp của nhân dân được 20 vạn lạng
vàng và 400 vạn lạng bạc thôi.
Dân chúng phẫn uất, quân cần vương nổi lên, do Diêu Bình Trọng thống
suất, đánh trại quân Kim không thắng. Vua bãi chức Lý Cương để lấy lòng