mới ban chiếu, định chính sách cai trị.
[-] Về tôn giáo, đạo đức, có 10 khoản phỏng theo thập giới của đạo Ki Tô:
phải thờ phụng Thượng Đế, không thờ phụng tà thần (cấm thờ Khổng, Lão,
Phật…, cấm cả thờ ông bà), mỗi tuần bảy ngày, ngày nào cũng phải tán
tụng ân đức của Thượng Đế, phải hiếu thuận với Cha mẹ, không giết người,
không tà dâm, không trộm cướp, không nói láo…
[-] Chính sách xã hội: những người già cả, góa vợ, góa chồng, những người
cô độc, hoặc trẻ em, không cày ruộng được chính phủ cấp dưỡng.
[-] Nghiêm cấm các thói xấu như thói đàn bà bó chân, thói hút thuốc phiện,
uông rượu, đánh bạc, mua bán nô tì, nuôi nàng hầu.
[-] Quan chế, binh chế (lược bỏ)
[-] Điền chế: ruộng đất, vàng bạc là của chung, không ai được giữ làm của
riêng; ruộng thì chính quyền phân phát cho, dân cùng nhau cày cấy, cùng
ăn cùng mặc, có tiền thì cùng tiêu, người nào trữ mười lạng bạc hoặc một
lạng vàng thì bị trừng phạt.
Chế độ đó là chế độ cộng sản, lần đầu tiên Hông Tú Toàn đem áp dụng ở
Trung Quốc, nhưng vì năm nào cũng có chiến tranh chưa thực hành được
chọn.
[-] Dùng lịch mới, gọi là Thiên lịch: mỗi năm gồm 366 ngày, chia làm 12
tháng, tháng lẻ 31 ngày, tháng chẵn 30 ngày, như vậy cứ 4 năm, dôi ra 3
ngày, thì hành 5 năm rồi mới thấy cần phải sửa lại.
[-] Chế độ thi cử: vì Thái Bình Thiên quốc đề xướng nam nữ bình đẳng,
nên cho đàn bà thi như đàn ông, lập ra hai bảng cho đàn ông, một cho đàn
bà. Có chủ khảo riêng cho nam thí sinh, chủ khảo riêng cho nữ thí sinh.
Phía đàn bà cũng lầy một người đậu trạng nguyên, đó là một đặc sắc của
Thái Binh thiên quốc.
Nhưng càng cấm thì dân chúng lại càng hút, mà bọn buôn lậu và tham quan
ô lại càng làm giàu. Khi chính quyền đã thối nát thì cấm gì cũng không ai
nghe, không nghe thì lại càng cấm ngặt hơn, rốt cuộc lịnh cấm không còn
giá trị gì cả, trên cứ cấm dưới cứ buôn lậu, cứ hút. Tàu buôn Anh neo ở
ngoài khơi, xa bờ một quãng, khỏ hải phận Trung Hoa, bọn buôn lậu chéo
thuyền nhỏ ra chở vào bờ - xưa cũng như nay, khác gì đâu – và Anh, Hoa