thân ở cả hai bên và nhờ đó tôi quan sát thấy: dù vấn đề đưa ra thảo luận là
gì, cả hai phía đều có niềm tin sắt đá rằng các bằng chứng ủng hộ cho quan
điểm của phía họ.
Sự chắc chắn này được gọi là khuynh hướng khẳng định, theo đó chúng ta
tìm kiếm và phát hiện những chứng cứ khẳng định niềm tin sẵn có của mình
và bỏ qua hoặc diễn giải lại những chứng cứ phủ định niềm tin đó. Theo
nhà tâm lý học Raymond Nickerson tại Đại học Tufts, khuynh hướng khẳng
định “mạnh mẽ và rộng khắp đến mức có lẽ chính nó góp phần đáng kể vào
sự tranh chấp, bất đồng và hiểu lầm giữa các cá nhân, nhóm người và quốc
gia.”
Có rất nhiều thí nghiệm đã được tiến hành. Năm 1981, trong nghiên cứu
của mình, nhà tâm lý học Mark Snyder yêu cầu những người tham gia đánh
giá tính cách một người mà họ sắp gặp. Ông đưa cho một nhóm bản lý lịch
của một người sống hướng nội (nhút nhát, rụt rè, trầm tính) và đưa cho
nhóm kia bản lý lịch của một người sống hướng ngoại (hòa nhã, nói nhiều,
thoải mái). Khi được yêu cầu đánh giá tính cách người này, nhóm được biết
anh ta sống hướng ngoại có xu hướng đặt các câu hỏi dẫn đến kết luận này;
nhóm được biết anh ta sống hướng nội cũng làm điều tương tự theo hướng
ngược lại.
Trong một nghiên cứu khác năm 1983, hai nhà tâm lý học John Darley và
Paul Gross cho những người tham gia xem đoạn băng về một đứa trẻ đang
làm bài kiểm tra. Ông nói với một nhóm rằng đứa trẻ này thuộc tầng lớp
trên trong xã hội, và nói với nhóm kia rằng đứa trẻ thuộc tầng lớp dưới
trong xã hội. Các đối tượng sau đó được yêu cầu đánh giá khả năng học vấn
của đứa trẻ dựa trên kết quả của bài kiểm tra. Nhóm được biết đứa trẻ họ
đang nhận xét xuất thân từ tầng lớp thượng lưu đã đánh giá khả năng của
em trên mức của điểm số, nhóm còn lại nghĩ họ đang đánh giá một đứa trẻ
xuất thân từ tầng lớp hạ lưu nên đã đánh giá khả năng của em dưới mức của