Các nghiên cứu về hạnh phúc và tự do quốc tế cho thấy sự gia tăng về
quyền tự trị và tự chủ cá nhân sẽ đem lại hạnh phúc nhiều hơn và con người
có xu hướng hạnh phúc hơn khi sống trong các xã hội với mức tự trị và tự
do cá nhân cao hơn so với những người sống dưới các chế độ chuyên chế và
tập thể. Thí dụ, nhà khoa học xã hội Ruut Veenhoven thuộc Đại học
Erasmus, Rotterdam đã tiến hành một cuộc điều tra toàn diện, coi hạnh
phúc trong cuộc sống là một hàm số của ba điều kiện xã hội: chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội lựa chọn, và khả năng lựa chọn. “Dữ liệu cho thấy mối quan hệ
xác thực rõ ràng,” Veenhoven kết luận, “quốc gia càng cá nhân hóa, công
dân càng yêu cuộc sống hơn.” Hơn nữa, ông không gặp “kiểu hiệu suất
giảm dần,” nghĩa là “sự cá nhân hóa chưa vượt qua điểm tối ưu.” Nói cách
khác, tự do và tự trị cá nhân cao hơn có thể dẫn tới mức hạnh phúc cao hơn
nữa.
Điều khó khăn là tìm ra đúng điểm cân bằng giữa sự tự do, tự trị cá nhân và
công bằng, công lý tập thể. Trong các bầy đàn nhỏ của tổ tiên chúng ta thời
đồ đá, ràng buộc xã hội về quan hệ di truyền và chất keo dính xã hội hình
thành từ các trao đổi tương hỗ có khả năng cố kết con người với nhau mà
không cần nhiều ràng buộc bên ngoài về tự do và tự trị. Nhưng với sự xuất
hiện của các thành bang và nhà nước, các thể chế nhân tạo trở nên cần thiết
để thực thi các quy tắc hợp tác và giải quyết xung đột. Song chúng ta cần sự
điều hành từ bên ngoài nhiều tới mức nào?
***
Làm sao có thể khuyến khích một cách gia trưởng các hành vi đem lại sức
khỏe và hạnh phúc về tinh thần tốt hơn mà không cùng lúc làm giảm tự do
và quyền lựa chọn để không làm mất đi mục đích ban đầu của chính sách
gia trưởng? Bạn có thể tìm thấy câu trả lời trong các chính sách cho phép tự
do lựa chọn nhiều nhất đồng thời khuyến khích các phương án khiến cuộc
sống lành mạnh và hạnh phúc hơn. Chủ nghĩa gia trưởng tự do là thí dụ về
một chính sách như vậy. Lý thuyết này được hai nhà kinh tế học Cass