Nói xong, Quận Gió nhanh như chớp đã mất hút trong đêm đen. Chưa
đầy một khắc, Quận Gió đã quay lại với hai nén bạc trên tay, mỉm cười với
chàng giám sinh:
“Hai nén bạc này, anh có đủ tiền làm lộ phí và còn để dùng vào việc sôi
kinh nấu sử. Mong rằng sau này anh đỗ đại khoa, nhớ đừng bòn rút xương
máu, công sức của dân mà hãy làm một ông quan liêm.”
Chàng giám sinh gật đầu cảm tạ, lại soi hai nén bạc dưới ánh đèn dầu,
thấy đề bốn chữ: “Quốc khổ chi bảo”. Không nghi ngờ gì nữa, đây là bạc
trong kho của nhà nước.
Sáng mùng Một Tết, chàng giám sinh đã ngự trên ngai vàng, dưới sân
điện, các quan tung hô chúc Tết. Khi ấy, vua Thánh Tông mới kể về chuyến
vị hành đêm giao thừa, lại cho mọi người chuyền tay nhau hai nén bạc
“Quốc khố chi bảo”. Viên quan coi kho mặt cắt không còn giọt máu, bị lột
bỏ hết mọi tước vị, gia sản bị tịch thu, thân bị lưu đày vì tội nhũng lạm
quốc khố. Còn Quận Gió sau đó được vua cho mời vào cung ban hiệu là
“quân tử đạo chích” và ban thưởng rất hậu.”
Trong cái thời đại phong kiến “Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa
thì quét lá đa” thì vua Lê Thánh Tông bãi bỏ luật cha truyền con nổi của
các công thần. Nhà vua tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và
đức. Bởi vậy mà quan xã thời vua Lê Thánh Tông là do dân bầu. Câu nói:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” do Thân Nhân Trung biên soạn chính
là ở thời đại thịnh trị của vua Lê Thánh Tông. Nhà vua yêu hiền tài như
con, trọng dụng và khoan hậu với những sai lầm của họ. Việc “bỏ người
nhà mà chọn người tài” đã giúp vây quanh Lê Thánh Tông toàn là những
nhân vật kiệt hiệt của thời đại Lê Sơ: Quách Đình Bảo, Phan Phu Tiên,
Thân Nhân Trung, Ngô Sĩ Liên, Lương Thế Vinh, Vũ Hữu, Đỗ Nhuận,
Nguyễn Quang Bật... Tất cả đều là những người đi lên bằng chính đôi chân
của mình. Họ ở đó với ông, cùng nhau góp trí tuệ để xây dựng nên một Đại
Việt hùng cường, giàu mạnh.