phận con hát cũng như con cháu họ trở nên cơ nhỡ. Lê Thánh Tông ban
hành một hình luật rất nghiệt ngã: “Con trai nhà xướng ca không được dự
thi, con gái không được lấy nhà quyền quý, quan chức lấy con gái nhà
xướng ca làm vợ, làm thiếp bị phạt đánh 70 trượng và biếm ba tư, Con cháu
nhà quan chức lấy con gái nhà xướng ca cũng bị phạt đánh 60 trượng và
nhất thiết bắt ly dị.” Câu chuyện này của Lê Thánh Tông là một bài học
lớn, không bao giờ được quyền phủ nhận một tầng lớp nào trong xã hội.
Con cái không liên quan đến bố mẹ, việc dùng lý lịch để phủ nhận tài năng
của một con người sẽ dẫn đến bỏ sót nhân tài. Vào thế kỷ XVII - XVIII, có
một người là con cháu của con hát đã xuất hiện ở phương Nam, tham mưu
cho các chúa Nguyễn tạo nên một cơ đồ oai hùng ở phía Nam, chống lại
chính tập đoàn “Vua Lê - Chúa Trịnh” đã không khu dụng ông ở miền Bắc,
đấy là Đào Duy Từ, người chúng ta sẽ gặp ở khúc ca thứ 12.
Năm 1997, vua Lê Thánh Tông mất, ngài tại ngôi 37 năm, thọ 56 tuổi,
táng ở Chiêu Lăng - Lam Kinh - Thanh Hóa. 37 năm - gần 4 thập kỷ - để
tạo nên một di sản khổng lồ về tất cả mọi lĩnh vực từ hành chính, kinh tế
đến xã hội, từ bảo vệ biên cương đến mở rộng lãnh thổ. 37 năm trong cuộc
đời, ngài đã dành những gì đẹp nhất cho dân tộc, từ trí tuệ, tài năng, sức
sống mãnh liệt cho đến cái tâm tham vọng cho một Đại Việt hùng cường.
Dù còn ít nhiều hạn chế (mà ở đây là cái hạn chế trong lăng kính của người
hiện đại nhìn về), Lê Thánh Tông - Lê Tư Thành là đỉnh cao của một bậc
minh quân mà xã hội Việt Nam từng có được. Ông cũng là vị vua vĩ đại
nhất lịch sử dân tộc ta, người đưa Việt Nam đến một thời kỳ thịnh trị nhất
và là niềm tự hào vô bờ của dân chúng khi có một vị vua nước Việt khiến
Trung Quốc phải e dè. Câu chuyện vua Lê Thánh Tông và thời “Hồng Đức
thịnh thế bởi vậy sẽ được nhắc mãi trong trang sử dân tộc này, đó là thời kỳ
vinh quang nhất, thái bình nhất và đặc biệt: kiêu hãnh nhất.