Người tài suy nghĩ thường giống nhau, Việt Nam có những hai người
như thế. Sau Nguyễn Chích 300 năm là Quang Trung - Nguyễn Huệ. Đại
Nam liệt truyện chép: “Rạng sáng 16 tháng Chín năm 1972, trước khi mất,
vua Quang Trung đã đòi Trần Quang Diệu đến bên mà trăn trối, dặn chôn
cất nội trong một tháng rồi dời kinh về Phượng Hoàng Trung Đô (tức Nghệ
An) cho mau, bởi vì “Nếu không, quân Gia Định kéo tới, các ngươi sẽ
không có đất mà chôn đâu.”
Quay lại địa bàn Nghệ An, nơi Nguyễn Chích khuyên Lê Lợi hãy chiếm
lấy. Nghệ An nằm ở phía nam Thanh Hóa, là một vùng đất đông dân và phì
nhiêu, người Nghệ An giàu tính dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn. Đồng
bằng Nghệ An sở hữu tài lực và vật lực rộng lớn có thể cung cấp lương
thảo, sức người, sức ngựa. Có thể nói xứ Nghệ chính là nơi lý tưởng để đặt
hậu phương cho cuộc Bắc chinh dài hơi của quân Lê Lợi. Về địa lý, khác
với Lam Sơn nằm giữa ba gọng kìm, Nghệ An ở xa trung tâm hơn, khiến
việc điều binh tiếp viên của quân Trung Quốc luôn lâm vào thế khó khăn và
chậm chạp.
Chiến dịch Nghệ An bắt đầu từ trận Đa Căng để dọn đường cho Lam
Sơn tiến vào Nghệ An. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:
“Giáp Thìn (1424), mùa thu tháng Chín, ngày 20, vua chỉ huy quân và
voi đánh úp đồn Đa Căng, phá được đồn này.
Tham chính nhà Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ chạy thoát được thân mình,
ta thu hết khí giới, đốt phá đồn giặc. Độ chỉ huy sứ nhà Minh là Nguyễn
Suất Anh đem quân đến cứu viện nhưng đồn đã mất. Anh chưng hửng,
không chỗ bấu víu, vua lại đánh bại chúng... Vua chọn đinh tráng, sửa khí
giới, rèn bộ ngũ, chứa sẵn lương khô, tiến thẳng vào Nghệ An.”
Sau khi lấy được Đa Căng, quân Lam Sơn tiến đánh thành Trà Lân ở
châu Trà Lân. Quân Minh biết tin, liền đưa quân đến tiếp viện, nhưng bị
quân Việt phục kích ở Bồ Đằng (Quỳ Châu), tổn thất mất 2000 quân và đô
tỵ người Minh là Trần Trung bị chém trong trận. Nghĩa quân tiến thăng tới
Trà Lân, vây thành. Thành Trà Lân ở trên một ngọn núi bên bờ bắc Sông