Tuy nhiên, cũng có một số ít ngoại lệ đối với mô hình theo chủ nghĩa sô vanh
này. Ở một số loài chim, ví dụ như chim lội nước và chim choắt hoa
, con đực có
vai trò ấp trứng và nuôi dạy chim non, trong khi con cái đi tìm con đực khác để
tiếp tục thụ tinh và nuôi con cho nó. Con đực ở một số loài cá (như cá ngựa và cá
gai) và một số con đực ở lớp động vật lưỡng cư (như cóc bà mụ) sẽ chăm sóc
trứng trong tổ hoặc bảo vệ trứng trong miệng, trong túi hoặc trên lưng. Chúng ta
có thể giải thích như thế nào đồng thời cả mô hình chung: con cái chăm sóc con,
và một số ngoại lệ?
Chúng ta có thể giải đáp câu hỏi đó nếu như hiểu được rằng gen quy định tập
tính, cũng như những gen quy định tính kháng bệnh sốt rét và gen quy định bộ
răng đều chịu tác động của chọn lọc tự nhiên. Kiểu tập tính giúp các cá thể trong
một loài truyền đạt gen của chúng không nhất thiết có ích cho loài khác. Cụ thể
là, cá thể đực và cái sau khi giao phối để sản sinh ra trứng được thụ tinh sẽ phải
“lựa chọn” trong số một loạt các tập tính. Cả con đực và con cái có nên để trứng
đã thụ tinh tự phát triển và tiếp tục tiến hành giao phối tạo ra trứng thụ tinh khác,
giao phối với chính bạn tình đó hoặc là giao phối với một bạn tình mới? Một mặt,
thời gian cho giao phối được dành cho việc chăm sóc con có thể làm tăng khả
năng sống sót của trứng thụ tinh đầu tiên. Nếu như điều đó xảy ra, cặp bố mẹ đó
sẽ phải đối mặt với các lựa chọn khác, đó là, cả con đực và con cái cùng chăm
sóc trứng đã thụ tinh hay chỉ con cái hoặc chỉ cần con đực làm nhiệm vụ này. Một
mặt khác, nếu trứng đã thụ tinh có khả năng sống sót 10% mà không cần tới sự
chăm sóc của cha mẹ, và nếu thời gian dành để chăm sóc trứng được dùng cho
việc tạo thêm 1.000 trứng thụ tinh mới, thì cả con đực và con cái tốt nhất nên để
mặc trứng đã thụ tinh đầu tiên tự phát triển và tiếp tục giao phối tạo thêm nhiều
trứng thụ tinh hơn.
Tôi đã đề cập đến các khả năng bằng thuật ngữ “lựa chọn”. Thuật ngữ này làm
cho ta có cảm giác động vật có thể suy nghĩ như con người, cẩn thận đánh giá các
khả năng và cuối cùng chọn một khả năng thích hợp nhất để phát triển lợi ích của
chính nó. Dĩ nhiên, điều đó không xảy ra ở động vật, nhiều trong số cái gọi là lựa
chọn thực tế được lập trình trong sinh lí và giải phẫu hình thể của động vật. Ví
dụ, kanguru cái, chứ không phải là kanguru đực, đã chọn hình thức mang túi để
có thể che chở cho con. Nhiều hoặc tất cả các lựa chọn còn lại là những lựa chọn