Thái thường Phan Tuấn đi đánh dẹp ở Ngũ Khê, vì can đảm và có sức khoẻ
được khen ngợi. Rồi thăng làm Thiên tướng quân Doanh hạ đốc, coi việc
đánh đạo tặc, giữ phép tắc không hề nghiêng ngả. Lỗ Vương Bá để ý và
giao du với Tích, từng đến dinh sở của Tích, khi đến nơi ngồi chơi, muốn
cùng giao kết, Tích ngồi xuống đất không dậy, khước từ không nhận. Nhiên
chết, Tích nối nghiệp, được bái làm Bình Nguỵ tướng quân, Lạc Hương
đốc. Năm sau, Chinh nam tướng quân nước Nguỵ là Vương Sưởng đốc
xuất quân lính tấn công thành Giang Lăng, không thắng phải lui về. Tích
gửi thư cho Phấn uy tướng quân Gia Cát Dung nói: “Sưởng từ xa đến đây
mỏi mệt khốn khó, ngựa không có lương ăn, lực khuất phải bỏ chạy, đó trời
giúp ta vậy. Nay ta đuổi theo thì binh lực ít, túc hạ nên dẫn binh theo giúp
ta, ta sẽ phá chúng ở phía trước, túc hạ ngồi xe ở phía sau, há đâu là cái
công của một người, chúng ta nên cùng vì nghĩa chặt vàng.” Dung đáp thư
hứa theo Tích. Tích liền dẫn binh đuổi kịp Sưởng ở Kỷ Nam, Kỷ Nam ở
cách thành trì ba mươi dặm, Tích ban đầu chiến thắng, nhưng Dung không
tiến binh, Tích về sau mất lợi thế. Quyền rất khen ngợi Tích, nổi giận trách
Dung, anh của Dung là Đại tướng quân Gia Cát Khác được quý trọng, cho
nên Dung không bị phế truất. Khi trước Tích cùng với Dung và Khác đã bất
bình, lúc xảy ra việc này, nên hiềm khích càng nặng.
Năm Kiến Hưng nguyên niên, Tích được thăng làm Trấn đông tướng
quân. Năm thứ hai mùa xuân, Khác ra hướng Tân Thành, yêu cầu Tích hợp
sức, nhưng lưu lại ở Bán Châu, sai Dung kiêm quản việc ấy. Mùa đông,
Khác và Dung bị hại, Tích lại quay về Lạc Hương, được ban Giả tiết.
Năm Thái Bình thứ hai, Tích được bái làm Phiêu kỵ tướng quân. Tôn
Lâm nắm quyền chính, đại thần nghi ngờ, Tích sợ rằng nước Ngô tất nhiễu
loạn, rồi Trung Quốc thừa cơ gây hấn, bèn bí mật gửi thư giao kết với nước
Thục, để cả hai bên cùng lo toan. Thục phái Hữu tướng quân Diêm Vũ đưa
năm nghìn quân, tăng cường giữ thành Bạch Đế, để đợi hiệu lệnh của Tích.
Năm Vĩnh An sơ, Tích được thăng làm Thượng đại tướng quân, Đô hộ đốc,
từ Ba Khâu lên đến Tây Lăng. Năm Nguyên Hưng nguyên niên, triều đình
cho người tới bái làm Tả đại tư mã.